Thứ Ba, 8 tháng 1, 2013

NHÂN QUẢ NHƯ HÌNH VỚI BÓNG




Thuở quá khứ, có năm người giả làm Tỳ-kheo, lạm dụng sự cúng dường của Đàn-na tín thí để nuôi sống bản thân và gia đình. Sau khi chết, họ tái sanh trở lại làm người thân phận nghèo hèn. Cả năm người đều phải ở đợ, phục dịch cho gia đình Hoàng hậu Mạt-lợi,  phu nhân vua Ba-tư-nặc.
 Một hôm, ở Tịnh xá có lễ cúng dường chư Tăng, Hoàng hậu Mạt-lợi đến dự, dẫn theo đoàn tùy tùng giúp việc, phục dịch cho bà. Sau khi các Phật tử cúng dường tứ sự, đảnh lễ giáo đoàn Như Lai Thế Tôn xong, Mạt-lợi phu nhân ngồi sang một bên, cung kính đảnh lễ bạch hỏi đức Phật nguyên nhân vì sao bà được làm Hoàng hậu.
 Đức Phật cho biết, trong đời quá khứ, bà là một Phật tử thuần thành, tín tâm cúng dường cho năm thầy Tỳ-kheo với lòng chí thành, chí kính, nhờ phước báu đó, ngày nay bà được sanh vào gia đình quyền quý và được tại vị trên ngôi Hoàng hậu mẫu nghi thiên hạ.
Nhân đây đức phật cũng cho bà rõ là năm vị Tỷ-kheo được bà cúng dường đời trước không phải là thầy tu thật, mà năm vị giả làm Tỳ-kheo để ăn của cúng dường. Do vì nghiệp báo giả làm Tỷ-kheo, lạm dụng tài vật cúng dường của đàn-na tín thí để nuôi thân và gia đình. Cho nên, đời nay năm người ấy được sanh lại làm người phải chịu thân phận kẻ nghèo hèn. Năm người đó nay đang có mặt trong đoàn người giúp việc, phục dịch cho Hoàng hậu đang đứng bên ngoài.
Nghe đức Phật nói vậy, Hoàng hậu Mạc-lợi với lòng từ bi và đức khoan dung, muốn phóng thích năm người đó ra khỏi đoàn tùy tùng để tự do làm ăn, bà xin đức Phật cho biết danh tánh của năm người ấy. Đức Phật bảo, đó là bốn người khiêng kiệu và người lo vệ sinh riêng cho bà đấy.
Vừa nghe, bà giật mình, liền ra lệnh cho năm người ấy tự do đi tìm công việc làm ăn sinh sống, nhưng họ không biết phải làm gì và đi đâu, nên cả năm người đều xin ở lại phục vụ cho bà suốt đời. Đó là cách trả nợ theo luật nhân quả của người xuất gia không tu hành đàng hoàng. 
Qua câu chuyện, ta thấy thực hành bố thí, cúng dường với tâm thành kính và hoan hỷ cho thầy tu giả dối mà vẫn được phước lớn như vậy huống hồ gì là cúng dường cho các vị cao Tăng tu hành chân chánh hay các vị Thánh Tăng thì phước lực không thể nghĩ bàn. Cho nên, trong kinh có ví người cúng dường như con dao, người nhận cúng dường như cục đá mài, hành động cúng dường như việc mài dao. Dao càng mài càng sắc. Đá càng mài càng mòn.
Phật tử chúng ta, ai may mắn gặp được các vị Thánh Tăng, mà phát tâm cúng dường thì sẽ được phước báu vô lượng, vô biên không thể nghĩ bàn. Tuy nhiên, trong thời hiện đại, khoa học văn minh, vật chất ngày càng cao, lại vì đời của ta bị nghiệp vô minh vốn huân tập từ nhiều đời, nhiều kiếp che khuất, nên việc tìm một vị chân tu đạo cao, đức trọng không phải dễ.  Do phước mỏng, nghiệp dày, nên ta thường gặp và gần gũi với phàm phu Tăng là nhiều, bởi họ tu học tới đâu, hướng dẫn chúng ta tu hành theo tới đó.
 Vì vậy, chúng ta phát tâm cúng dường cho chư Tăng trong hiện tại là điều cần thiết, trách nhiệm nhân quả của họ và ta vẫn luôn công bằng và hợp lý, dù trăm ngàn kiếp cũng không bị mất đi hay sai lệch. Đến khi hội đủ điều kiện thì phước báu của ta sẽ trổ ra và khi kết quả của việc tu tập, thực hành hội đủ nhân duyên thì việc chứng quả của họ cũng sẽ tự hiện.
Ngoài cách trả nợ như trên, người xuất gia còn phải trả nợ bằng nhiều hình thức khác. Ví như người xuất gia tu hành không cầu giác ngộ, giải thoát mà lạm dụng màu áo tu hành để làm chính trị, làm cho người đệ tử mất tín tâm đối với Tam Bảo, hạn chế phát triển đạo đức tâm linh, khiến nhiều Phật tử mất niềm tin, thoái tâm Bồ-đề, trở lại làm điều phi nghĩa, thất đức, gây tổn hại cho ngừơi và vật, phạm điều giới cấm của Phật.
Tuy hiện đời dường như họ có phước, nhưng đến khi hết phước thì họa tới khôn lường, chắc chắn ngày sau họ phải đọa vào loài súc sanh để trả món nợ này. Bởi nhân quả là một định luật tất yếu, chúng ta có thể qua mặt luật lệ thế gian, nhưng không thể nào trốn tránh được nhân quả “gieo gió gặt bão.” Là hành giả Phật giáo, chúng ta phải suy nghĩ kỹ chỗ này, đừng để đến khi mang lông, đội sừng thì hết đường cứu, phải chịu nghiệp làm súc sanh đời đời, kiếp kiếp để trả nợ.



THỰC HÀNH PHÁP THÍ

Thế nào là pháp thí? Là truyền đạt đến người những điều hay, lẽ thật, giúp cho họ hiểu được đạo lý làm người, cách sống ở đời sao cho có đạo đức, nhân cách, đúng pháp luật, biết thương yêu người và vật.
Trong nhà Phật, việc dịch thuật, ấn tống kinh sách, thuyết pháp, truyền giảng những lời Phật dạy đến với mọi người được gọi là bố thí pháp. Trong các công đức, bố thí pháp là phước đức rộng lớn, thù thắng hơn hết. Bởi bố thí pháp là ban bố đến người lời nói chân thật, chân lý, vui vẻ, hòa giải và đoàn kết có lợi ích thiết thực cho đời sống con người. Những điều này có thể cứu khổ, mang lại hạnh phúc cho người nghe. Pháp là chân lý, là lời dạy phù hợp với lòng người, người nghe pháp sẽ dứt ác làm lành. Pháp thí có lợi ích lâu dài và công đức lớn lao, giúp người hiểu rõ sự thật cuộc sống, bớt mê lầm, hiểu thấu nhân quả, nghiệp báo, biết tránh xa những điều tội lỗi.
Thời Phật còn tại thế, một số đệ tử của Ngài sau khi nghe giảng liền chứng quả, bởi vì các lầm lạc si mê nhiều đời, nhiều kiếp của họ được chuyển hóa tận sâu trong tâm thức, biến xấu thành tốt, biến khổ đau thành hạnh phúc, thay đổi cuộc đời tăm tối bằng ánh sáng giác ngộ. Rồi họ đem chân lý ấy truyền đạt rộng khắp cho nhiều người biết được việc thành bại. khổ đau, hạnh phúc trên đời này đều do tâm tạo tác. Nhờ đó, họ mau đến chỗ giác ngộ và giải thoát hoàn toàn.
Phật pháp hay cứu khổ chúng sanh nhiều đời lầm lạc vì si mê chấp ngã. Nhờ học Phật pháp ta phá vỡ, lột bỏ được những thành trì kiến chấp, mê lầm huân tập từ nhiều đời, nhiều kiếp.
Pháp thí là đem những lời dạy chân lý, tốt đẹp của đức Phật  truyền đạt đến mọi người, là điều cần thiết để xây dựng một xã hội tốt đẹp, an vui, hạnh phúc. Sở dĩ trên thế gian này luôn xảy ra nhiều tệ nạn xã hội như giết người, cướp của, trộm cắp, tham nhũng, bóc lột, quan liêu cửa quyền, ganh ghét, hận thù, sống không có luân thường đạo lý, đều do không hiểu biết về chân lý cuộc đời. Vì vậy ta cần phải học và hành trì những lời Phật dạy.
Pháp thí chân chánh hay giúp cho người biết được điều hay, lẽ phải, thấu rõ lý chân thật của cuộc đời, từ đó, con người làm chủ được bản thân, tạo nên cho mình cuộc sống tốt đẹp, không lệ thuộc vào những điều mơ hồ như thần linh, thượng đế hay một đấng quyền năng nào cả.



VÌ PHÁP QUÊN MÌNH ĐƯỢC NGỘ ĐẠO

Thuở xưa, A-dục là một ông vua độc ác, nhờ gặp Phật pháp, ông cải tà quy chánh trở thành đệ tử nhà Phật. Ông thường xuyên cung thỉnh chư Tăng vào cung thuyết giảng Phật pháp cho cung phi mỹ nữ nghe, nhưng cấm họ nhìn thấy vị pháp sư. Vì vậy, mỗi lần thuyết giảng, vị Pháp sư phải ngồi sau một tấm màn che. Hôm ấy, vị Pháp sư đang giảng đề tài “Lợi ích cúng dường” bổng một cung nữ đứng dậy tiến đến vén tấm màn che và quỳ trước pháp sư thưa rằng: “Kính bạch pháp sư, con nghe nói đức Phật thành đạo dưới cội bồ-đề nhờ thiền định mà giác ngộ giải thoát, không phải do tu bố thí trì giới?”
 Vị pháp sư giải đáp: “Đời người có bốn cái khổ gọi là Tứ đế: sanh, bệnh, lão, tử. Khổ vì xa lìa người thương, khổ vì gặp người không ưa, khổ vì mong cầu không được, Khổ vì điều không muốn mà đến. Chúng sanh do tham, sân, si và chấp ngã, thấy mình là trên hết nên sanh ra thù hận, tàn sát lẫn nhau”.
Sau khi nghe vị Pháp sư giảng giải, người cung nữ này ngộ đạo và chứng quả Tu-đà-hoàn. Cô biết mình vén màn nhìn vị Pháp sư để hỏi đạo là phạm lệnh cấm của vua, nên khi hết thời giảng, mọi người ra về, cô vẫn quỳ tại chỗ chờ vua ban lệnh xử tội. Phạm lệnh cấm của vua, theo luật triều đình lúc bấy giờ là phải bị tội chết.
Vua A-dục từ khi cải tà quy chánh trở thành Phật tử, ông không ban xử tội chết nữa. Vì vậy, cô cung nữ ấy không bị xử tội, lại được vua ban lời khen và khuyến khích mọi người nên bắt chước cô tìm hiểu, học Phật pháp cố gắng áp dụng trong đời sống hằng ngày cho có kết quả.
Qua đó, chúng ta thấy Phật pháp có khả năng nâng đỡ những ai vấp ngã, xóa tan bóng tối mê lầm tội lỗi, đem ánh sáng giác ngộ đến cho muôn loài. Nếu người cung nữ đó không dám quên mình vì pháp, làm sao nhận ra được đạo lý chân thật? Làm sao giác ngộ và chứng được Tu-đà-hoàn, một quả vị có giá trị cao đối với đời sống con người.
Cũng như bản thân tôi, nhờ gặp được Phật pháp mới có đủ duyên tu hành. Bây giờ tôi mới có cơ hội chia sẻ cùng quý vị những lời Phật dạy. Nếu chúng ta không dám chấp nhận những lỗi lầm, sai trái của mình trước đây, để quay về, để làm mới cuộc đời thì chắc chắn suốt đời ta phải sống trong đau khổ lầm mê. Vì vậy, trong các hạnh bố thí, chỉ có bố thí pháp mới giúp cho người vượt qua biển khổ, sông mê, khiến người bỏ ác làm thiện, hướng đến chân, thiện, mỹ, tin sâu nhân quả, nghiệp báo không dám làm điều xấu ác.
Pháp thí dứt phiền não
Pháp thí phá ngu si
Pháp thí mở trí tuệ
Pháp thí thoát sanh tử.
Thực hành Pháp thí giúp người sanh trí tuệ, thấy biết đúng như thật. Nhờ có trí tuệ, ta bớt lầm mê, chấp thân này là thật, nên vì thân này mà tạo ra biết bao tội lỗi để bù đắp cho thân như tranh giành quyền lợi, chèn ép, bóc lột công sức lẫn nhau, giết hại các loài để ăn uống tẩm bổ cho thân, mong cầu tồn tại lâu dài, nhưng rồi có bao giờ được thỏa mãn, toại nguyên đâu. Nhờ Pháp thí, ta mới hiểu được thân này là không thật có, nó có là do bốn đại hợp thành, tức là do nhân duyên hòa hợp của đất, nước, gió, lửa tạo thành, đến khi hết duyên thì thân này bại hoại tan rã.



CÚNG DƯỜNG ĐƯỢC PHƯỚC

Trong Kinh Tứ Thập Nhị Chương đức Phật dạy: Bố thí cho người ác hưởng không bằng cúng dường cho người giữ năm giới. Cúng dường cho người giữ năm giới không bằng cúng dường cho người tu thập thiện (mười điều tốt.) Cúng dường cho người tu thập thiện không bằng cúng dường cho Phật. Ý nghĩa câu này là chỉ cho sự lợi ích cúng dường đúng cách.          
Thời đức Phật, có hai vợ chồng là Phật tử rất tín tâm Tam Bảo, nhưng hoàn cảnh gia đình lại nghèo khó, bữa đói, bữa no. Một hôm, người chồng đến chùa thấy nhiều người đem vật thực đến cúng dường Tam Bảo, anh phát tâm hoan hỷ vô cùng.
Về nhà, anh thấy nhà mình quá nghèo, không có cái gì có thể mang đến chùa để cúng dường, anh ta tủi thân, buồn rầu, đau khổ, đến nỗi anh ta không muốn ăn, chẵng muốn làm. Người vợ biết được, bèn đưa ra ý kiến: hay là anh đem em bán đi lấy tiền cúng dường, khi nào có tiền thì anh chuộc em về. Người chồng suy nghĩ, thấy làm như vậy thì quá nhẫn tâm, nên cả hai vợ chồng bàn nhau đi vay tiền cúng dường, nếu không trả nỗi thì đến ở đợ làm việc cho họ để trừ nợ.
Sau khi suy tính, chọn lựa, hai vợ chồng đến một nhà phú hộ trong làng trình bày sự việc, được nhà phú hộ đồng ý cho vay một số tiền với điều kiện trong bảy ngày phải mang tiền đến trả. Nếu không thì cả hai vợ chồng phải đến đây làm việc ở đợ suốt đời.
Nhận được tiền, hai vợ chồng vui mừng mang đến cúng dường cho lễ Trai Tăng với tâm thành kính và hoan hỷ. Mấy ngày sau, hai vợ chồng đều cảm thấy thật hạnh phúc được góp phần vào công đức này, sẵn sàng tinh thần đến nhà Phú hộ ở đợ vào ngày mai thì hôm ấy nhà vua hay tin nhà chùa thiết lễ cúng dường Trai Tăng, Ngài thân hành đến chùa xin được cúng dường cho lễ này. Sau khi được biết đã có hai vợ chồng nhà nghèo cúng dường, nhà vua yêu cầu hai vợ chồng phải nhường phần cúng dường lễ này cho Ngài. Hai vợ chồng nhà nghèo nghe lệnh vua như vậy, bèn đến trình bày: Chúng con nhà quá nghèo, may mà có nhà phú hộ trong làng cho vay tiền cúng dường, xin nhà vua để cho chúng con lo trọn, chứ lần này con không được cúng dường Tam Bảo thì e rằng suốt đời, con không có cơ hội nào nữa. Chúng con phải đi ở đợ làm việc suốt đời cho nhà phú hộ để trả món nợ này. Xin đức vua nhân từ ban ân, để chúng con được làm trọn công đức với Tam Bảo.
Tuy bị từ chối, nhưng nhà vua rất cảm phục tấm lòng cao thượng của hai vợ chồng. Về triều, nhà vua đem chuyện này thuật lại cho các quan quân, quần thần nghe, ai cũng đem lòng cảm phục. Và Ngài truyền lệnh cấp phát tiền bạc, nhà cửa, ruộng vườn cho hai vợ chồng làm ăn sinh sống để có cơ hội làm việc phước thiện. Từ đó hai vợ chồng trở nên giàu có, tin sâu Tam Bảo hơn, thường xuyên phát tâm bố thí, cúng dường và nguyện đời đời kiếp kiếp đi theo con đường lợi ích cho tha nhân.
Thật là “nhân quả nhãn tiền,” người thực hành bố thí cúng dường với tâm thành kính, hoan hỷ, dám hy sinh như hai vợ chồng trong câu chuyện thật là hiếm thấy trong thời chúng ta.
Một vị minh quân, một ông vua sáng suốt, biết phát huy những việc làm phước đức như ông vua kể trên thật là hạnh phúc cho dân, cho nuớc. Lịch sử nhân loại đã có rất nhiều vị lãnh đạo quốc gia làm được những việc như thế. Ở Việt Nam có Trần Nhân Tông, một vị vua lãnh đạo đất nước bằng tinh thần Bi, Trí, Dũng của đạo Phật, hướng dẫn dân chúng tu hành theo tinh thần Phật dạy, xây dựng nên một nước Việt nam hùng cường về mọi mặt, bên ngoài chiến thắng ngoại xâm, bên trong dân chúng sống thanh bình, no ấm, an vui như đang sống trong cõi Cực Lạc hiện tiền.
Đạo lý nhà Phật dạy con người sống có ích cho đời và đạo, không vì lợi ích riêng tư mà làm khổ mình, khổ người. Người Phật tử khi thực hành bố thí cho người, dù họ là người ăn xin hay kẻ tật nguyền cũng đều cung kính tôn trọng, không cho mình là người cao quý, mà có thái độ xem thường hay khinh rẻ. Tuy hành động bố thí vẫn có phước báu, nhưng lại tăng trưởng tâm cống cao, ngã mạn làm cho người nhận không vui ắt phải chịu quả báo không tốt về sau.
Tóm lại, thực hành bố thí cúng dường với lòng hoan hỷ, chân thành, kính trọng người nhận, đồng thời khởi tâm nguyện cầu Tam Bảo luôn thường trụ thế gian để ta có cơ hội học hỏi đạo lý, phẩm chất làm người, đến khi xác thân này tan rã không còn nhân duyên bám víu thì nghiệp thức này sẽ dẫn dắt ta tái sinh vào cảnh giới an lành, không bị trôi lăn trong ba đường ác địa ngục, ngạ quỷ và súc sanh.
Khi phát tâm bố thí
Tùy nhân quả chiêu cảm
Như vì thương mà thí
Quả chắc được an vui.





PHƯỚC ĐỨC VÀ CÔNG ĐỨC

Công đức và phước đức khác nhau thế nào?
Công đức là do tu tâm, rõ được bản tâm sáng suốt nơi chính mình rồi từ đó mỗi lời nói, hành động, suy nghĩ đều hợp với đạo lý làm người, làm điều gì cũng không sai trái, không bị dính mắc hay trói buộc.
Còn phước đức là diệu dụng của công đức, là kết quả của hành vi làm các việc thiện lành như giúp người hoạn nạn, chia sẻ vật chất, tinh thần giúp người bớt khốn khổ v.v…tạo nên những nhân tốt.
Người làm việc phước đức nhiều được hưởng quả phú quý, giàu sang, của tiền dư dật ở thế gian hay được sanh vào cõi trời. Theo kinh Phật dạy, người dù có phước tột đỉnh được sinh vào các cõi trời hay cõi người để hưởng quả tốt, nhưng đến khi hết phước vẫn bị định luật vô thường chi phối, trở lại trôi lăn trong vòng sanh tử luân hồi. Chỉ có nguời công đức đầy đủ không bị khổ đau chi phối, do đó được an nhiên tự tại trong mọi hoàn cảnh.
Để hiểu rõ công đức và phước đức khác nhau thế nào, chúng ta cùng nghe câu chuyện thời đức Phật:
Có một Tỳ-kheo tu hành đã chứng quả A-la-hán, không còn bị tham, sân, si chi phối trong bất cứ hoàn cảnh nào. Người chứng quả A-la-hán sẽ bất động trước mọi nghịch cảnh cuộc đời.
Do nhiều đời tích lũy công đức nên vị Tỳ-kheo này trong đời hiện tại được duyên tu hành chứng quả, nhưng do đời trước không làm phước đức gieo duyên với mọi người, lại còn phỉ báng, ngăn cản người khác thực hành bố thí, cúng dường, nên sanh ra trong đời này Ngài phải chịu khổ đau một thời gian dài. Ngài bị mẹ bỏ rơi lúc 3,4 tuổi, được ngài Xá Lợi Phất đem về nuôi cho xuất gia đầu Phật. Và cuộc đời tu hành của Ngài rất cam go, khổ nhọc, thiếu thốn trăm bề, cho đến khi chứng quả A-la-hán mà Ngài vẫn chưa được một bữa cơm nào thật no đủ. Do nghiệp đời trước ngăn cản người bố thí, cúng dường mà đời nay Ngài phải chịu lãnh quả thiếu ăn suốt đời như vậy.
Nhân quả nghiệp báo sẽ không từ bỏ một ai khi hội đủ nhân duyên, làm lành được hưởng phước, làm ác chịu quả khổ là định luật rất công bằng không có sai biệt. Vì vậy, người Phật tử phải biết sáng suốt chọn lựa, đừng để đến lúc gặt quả xấu rồi than thân trách phận, đổ thừa tại này, tại nọ để rồi chuốt lấy khổ đau.
Bậc Thánh nhân khi gặp quả xấu, do có trí tuệ sáng suốt thấy rõ được nhân quả nghiệp báo, nên không buồn đau sầu khổ. Thân này tuy chịu quả thiếu thốn đói khát, nhưng tâm vẫn an nhiên tự tại trước mọi hoàn cảnh.
Người khôn ngoan phải biết chọn lựa con đường tốt đẹp dẫn đến an vui hạnh phúc, biết làm phước để tích lũy, nếu không biết tích lũy thêm phước đức, đến khi hết phước sẽ gặp tai họa.
Còn công đức là sự tu tâm, sửa đổi, chuyển hóa những tâm niệm tà vạy, tham lam, ích kỷ, hiểm độc, ganh ghét, cho nên vị Tỳ kheo ấy dù bị đói khát, thiếu thốn nhưng không khổ tâm vì biết nhân quả nghiệp xấu chiêu cảm. Cái hay của người tu hành là ở chỗ đó. Và đó cũng là chỗ khác nhau của công đức và phước đức.
Để làm sáng tỏ thêm ý nghĩa của công đức và phước đức chúng ta hãy nghe câu chuyện thiền như sau:
Tổ Bồ-đề-đạt-ma là vị tổ thứ 28 ở Ấn Độ, do nhu cầu hoằng pháp nên Ngài đã đến Trung Hoa gặp vua Lương Võ Đế. Vua hỏi: “Trẫm thường cất chùa, độ Tăng, Ni, in kinh ấn tống rất nhiều vậy có công đức không?
Tổ đáp: “Thảy đều không công đức.”
Nghe thế, vua sửng sốt, bàng hoàng, đâm ra nghi ngờ hỏi tiếp. Tại sao không công đức?
Tổ đáp: Đó là phước báu thế gian được hưởng phước báo làm người giàu sang, thông minh, mẫn tiệp ở cõi trời, người, như bóng theo hình, tuy có nhưng không bền chắc lâu dài.
Vua Lương Võ Đế tưởng rằng làm những việc phước thiện như vậy là công đức cao cả, nên chấp vào việc làm của mình, bị Tổ tạt cho một gáo nước lạnh, “tá hỏa tam tinh.” Bởi vua Lương nhầm lẫn giữa phước đức và công đức.
Mục đích của Tổ sang Trung Hoa là chỉ rõ cho mọi người nhận ra bản tâm chân thật sẵn có nơi mỗi người. Bởi đa số người đời thường lầm chấp thân và tâm suy tư, nghĩ tưởng của mình là thật nên làm cái gì cũng tìm cách chiếm đoạt, vơ vét bồi bổ cho cái thân xác để hưởng thụ cảm xúc. Vua Lương nghĩ rằng, cất chùa, độ Tăng, Ni, in kinh sách, say mê việc làm phước là công đức, nên Tổ mới phá chấp để nhà vua nhận ra bản tâm chân thật của mình, mà hiểu đúng lý giác ngộ, giải thoát của đạo Phật.
Bởi vì nhà vua không hiểu thế nào là công đức, chỉ một bề lầm chấp công lao của mình, cho đó là cứu cánh của đạo Phật. Nhà vua không hiểu ý sâu xa của Tổ, dù đang là vị vua trên các vua khác, được hưởng phước cao sang tột đỉnh, vẫn bị quy luật vô thường chi phối, rốt cuộc vẫn trôi lăn trong vòng sinh tử khổ đau. Còn chỗ Tổ muốn chỉ cho nhà vua là dừng lặng các tâm tham, sân, si, mạn, nghi, ác kiến, để sống lại với tâm sáng suốt của mình (Phật tánh). Từ đó, nhà vua sẽ không còn có bóng dáng của sợ hãi, khổ đau mà hằng an lạc thảnh thơi chan hòa tình thương đến muôn loài.
 Cho nên đến với đạo Phật có hai hình thức: tại gia và xuất gia. Song xuất gia là số ít, còn đại đa số là người tại gia. Người xuất gia nguyện suốt đời đi theo lý tưởng giác ngộ, giải thoát, thấy tất cả mọi người đều là người thân, người thương của mình, trên cầu thành Phật, dưới cứu độ chúng sinh. Vì vậy người xuất gia nêu cao tinh thần hy sinh vì Tam Bảo, còn người tại gia ngoài việc lo cho gia đình và xã hội, thấu hiểu lý nhân quả, nghiệp báo cần tự giác phát tâm hộ trì Tam Bảo, trợ giúp vật chất để người xuất gia (chư Tăng Ni) có điều kiện, thời gian tu học và hành trì.
Việc làm của vua Lương Võ Đế quả là một điều khó làm. Bởi Ngài là vua một nước, trăm công, ngàn việc, nhưng Ngài vẫn tranh thủ thời gian làm những việc khó làm. Lương Võ Đế là ông vua cư sĩ trên đời này làm được như vậy là hiếm có, giúp cho dân chúng an cư lạc nghiệp, sống trên tinh thần đoàn kết giúp đỡ lẫn nhau, do đó trong nước rất ít tệ nạn xã hội.
Người người theo Phật tu nhân thiện
Mười phương thế giới dứt binh đao.
Việc làm của vua Lương Võ Đế quả thật là tuyệt vời đối với cuộc sống thế gian, nhưng vì Ngài lầm chấp cho rằng đó là cứu cánh của đạo Phật nên mới hỏi Tổ: “Con cất chùa, độ Tăng, Ni, in kinh ấn tống có công đức không?”
Tổ đáp: Đều không công đức.
Vua hỏi tiếp: Thế nào là Thánh đế đệ nhất nghĩa?
Tổ đáp: Rỗng rang không Thánh.
Thánh đế đệ nhất nghĩa là chỉ cho thật tướng vô tướng rỗng lặng sáng suốt thanh tịnh nơi mỗi con người. Bởi vua chạy theo danh tự và hình tướng bên ngoài nên không nhận ra trong mình có ông Thánh đang hiện diện sờ sờ. Vì vậy vua hỏi:
- Đối diện trẫm là ai?
-Tổ đáp: không biết!
Đến thời Lục Tổ Huệ Năng, có người đọc đoạn đối đáp của vua Lương Võ Đế với Tổ Bồ-đề-đạt-ma mới hỏi, Tổ đáp: Thật không có công đức, chớ nghi lời bậc Thánh nói. Vì vua Lương Võ Đế không hiểu được yếu nghĩa khai thị trực chỉ nhân tâm kiến tánh thành Phật” nên cho rằng cất chùa, độ Tăng, Ni, in kinh bố thí là công đức, thực chất đó chỉ là làm phước, không thể đem phước đổi công đức được.
Công đức là do tu tâm mà được; tự tu tánh là công, tự tu thân là đức, đức phải do nơi tự tánh mà thấy, không phải do bố thí cúng dường mà được. Do đó, công đức là do tu tâm rõ bản tánh rỗng lặng nhưng hằng thấy biết.
Còn những việc làm của vua Lương Võ Đế là do nhân quả phước báu của trời, người. Có phước thì được giàu sang, có nhiều của cải quyền thế, hưởng thụ vật chất đầy đủ, song hưởng thụ phước báu mà không biết kiệm phước thì cũng có ngày hết, phải chịu khổ đau trong vòng luân hồi sinh tử. Do đó, có phước mà thiếu công đức dễ dẫn đến phiền não, chấp trước, thấy mình là người bố thí, kẻ thọ nhận phải biết ơn mình, sanh tâm cống cao, ngã mạn, nhiều khi thấy người thọ nhận vô ơn, bạc nghĩa, không biết nhớ ơn họ mà còn sanh tâm coi thường khinh rẽ họ, không những bị mất phước mà còn phải mang lấy tội quả xấu nữa.
Vì vậy, là người con Phật, chúng ta phải biết quân bình, một mặt tích lũy phước báu. Nhờ có phước ta dễ có điều kiện tu học, một mặt tích cực tu tâm để chuyển hóa khổ đau khi đối diện nghịch cảnh cuộc đời. Trái lại, người đã sống với tâm chân thật, dù có bố thí đúng dường, làm nhiều phước thiện, cũng đều là công đức cả, vì họ làm trong vô tâm.
Vô tâm là tâm rỗng lặng sáng suốt không bị dính mắc, chấp thủ vào việc mình làm, chỉ tùy thời, tùy duyên làm lợi ích, không thấy mình là người bố thí, không thấy người thọ nhận và vật thí, do đó được an nhiên, tự tại trước mọi hoàn cảnh trái ngang. Nếu ta biết kết hợp làm phước và tu tâm, thì khổ đau sẽ không có mặt trong hành trình cam go của cuộc đời.



Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét