Thời Phật tại thế, có một bà nhà giàu hết lòng tin kính Tam Bảo, bà
luôn ứng dụng, hành trì, tu tập những lời Phật dạy và thường hoan hỷ
phát tâm cúng dường chư Tăng.
Điều mầu nhiệm đặc biệt là bà phát tâm ủng hộ cúng dường cho người
nào thì người đó ngộ đạo. Đây là do túc duyên gieo trồng phước đức nhiều
đời, nhiều kiếp của bà.
Tiếng lành đồn xa, một số thầy nghe danh, muốn đến thử xem mình có
duyên lành với vị thí chủ này không. Nhân mùa an cư kiết hạ, quý thầy
bàn nhau đến kiểm nghiệm lời đồn đãi ấy có đúng không và cũng để thăng
tiến trong mùa an cư kiết hạ này.
Được tin quí thầy đến trú xứ của mình tu tập, bà già hoan hỷ cúng
dường những gì cần thiết trong thời gian chư Tăng tu tập. Chỗ ở của bà
khá rộng rãi, rừng cây xum xuê, thuận lợi cho việc tu tập và hành thiền.
Bà thưa: “Quý thầy cứ yên tâm ở đây tu tập, không phải đi khất thực,
con sẽ cung cấp đầy đủ các nhu cầu cần thiết, con chỉ mong sao quí thầy
mau chứng thành đạo quả.
Khoảng ba mươi thầy, ai nấy cũng thuận hỷ lời thỉnh cầu của bà, ở lại
tu hành miên mật, tinh tấn. Tuy nhiều thầy cùng trú, nhưng khu vườn vẫn
im phăng phắc làm cho bà già đâm ra nghi ngờ, tại sao không nghe nói
chuyện hay là quí thầy giận nhau? Tại đây, các thầy đều được chứng quả
trong một thời gian ngắn. Thời ấy, nhờ sự trực tiếp chỉ dạy của Như Lai
Thế Tôn, đa số các Tỳ-kheo tu hành đều mau chứng đạo.
Tại sao trong thời Phật hiền tiền, các đệ tử của Ngài tu mau chứng
ngộ đạo quả như vậy? Đây là điều dễ hiểu thôi, bởi đức Phật biết rõ tâm
niệm của mỗi Tỳ-kheo nên Ngài chỉ dạy mỗi người một phương pháp thích
hợp với năng lực, nên các vị tu hành mau chứng đạo.
Bên cạnh, giới luật của chư Tăng hỗ trợ rất tích cực cho sự chứng đắc
như đức Phật không cho giữ tiền bạc của cải tài sản nên chư Tăng dễ
dàng buông xả hoặc không cho trụ xứ một chỗ lâu dài để không bị bám víu
vào sở hữu tài sản, do đó các vị tu hành mau thăng tiến.
Ngày nay, do hoàn cảnh xã hội và phong tục, tập quán không cho phép
Tăng, Ni sống như thời xưa được, chư Tăng phải có đủ điều kiện để tu và
hướng dẫn Phật tử tu hành, phải có chỗ ở ổn định… Vì vậy, chư Tăng dễ
bám víu vào sở hữu tài sản và phải hòa nhập vào cộng đồng xã hội để làm
lợi ích chúng sinh. Họ học hiểu tới đâu hướng dẫn Phật tử tu theo tới
đó, nên mức độ tu chứng của chư Tăng ngày nay rất hạn chế.
Song, Phật pháp không cố định, cứng ngắt, mà phải tùy thời, tùy duyên
hòa nhập vào xã hội, miễn sao người tu sống tốt đạo, đẹp đời là đã có
lợi lạc rồi.
Đạo Phật có mặt trên thế gian là vì hạnh phúc của con người, do đó
người tu trong thời hiện đại phải khó khăn, chật vật hơn thời xưa, nhưng
không vì vậy mà chúng ta cho phép mình lơ là tu tập, mà mỗi người phải
cố gắng hơn lên để không bị lui sụt trong hành trì.
Hơn nữa, thời Phật tại thế, không những đạo Phật mà các giáo phái
khác cũng không chấp nhận các việc kinh doanh, buôn bán, sản xuất trong
khi hành đạo, mà chỉ có việc đi khất thực để tùy duyên hóa độ chúng sanh
mà thôi.
Thời nay không có được phúc duyên như thế, nên chúng ta càng cố gắng tu hành nhiều hơn miễn là ta không thối chí nản lòng.
Trở lại sự việc bà già nghi ngờ, hoang mang tại sao chư Tăng ở đông
như vậy mà không nghe tiếng ồn. Bà gặp một Tỳ-kheo trong hội chúng để
hỏi cho rõ vấn đề.
Và vị Tỳ-kheo ấy đã giải thích cho bà rõ: Trước khi chúng tôi đến
đây, đã được Như Lai Thế Tôn chỉ dạy cho mỗi người một phương pháp tu
hành và chúng tôi phát nguyện: trong mùa an cư này, mỗi chúng tôi phải
tu hành cho đạt Thánh quả hết để đáp đền ơn Phật và đàn-na tín thí. Vì
vậy, chúng tôi thống nhất với nhau, mỗi người ở một góc riêng để tu tập
và hành thiền. Trong đoàn, thầy nào tu hành đạt kết quả sớm thì có trách
nhiệm hướng dẫn các thầy khác trên tinh thần hỗ trợ, giúp đỡ lẫn nhau.
Nghe thầy Tỳ-kheo trình bày như thế, trong lòng bà rất hoan hỷ. Từ
trước đến nay bà chưa bao giờ được nghe, thấy những điều như thế. Do đó
bà khao khát muốn được biết các thầy đang tu pháp gì? Và bà có thể tu
theo được không?
Nhờ túc duyên nhiều đời, bà được một thầy Tỳ-kheo hướng dẫn cách thức
tu hành, bà siêng năng, tinh tấn trong 7 ngày liền chứng được quả vị
A-na-hàm. Quả vị này là một trong bốn quả Thánh Thanh văn. Bà được chứng
quả trước quý thầy, có Tha tâm thông, biết được tâm niệm, ý nghĩ của
quý thầy muốn gì, cần gì, bà cúng dường chu cấp cho quý thầy đầy đủ theo
nhu cầu. Vị Tăng nào vừa bị bệnh, bà liền đem thuốc tới, vị nào khởi
niệm muốn ăn món gì bà đem món ấy đến. Bà cúng dường quý thầy chu đáo,
đúng mức như sở nguyện. Trong mùa an cư kiết hạ năm ấy, dưới sự bảo trợ,
cúng dường của bà, hết thảy quí thầy đều được chứng đắc đạo quả.
Chư tăng khắp nơi nghe tin, ai nấy đều tán thán công đức cúng dường
và tu tập của quý thầy trong mùa an cư kiết hạ này. Đó là niềm vui duy
nhất mà bà mong muốn và cũng để đền ơn quý thầy đã độ cho bà chứng quả
thứ ba A-na-hàm.
Còn quý thầy tu tập trong khu vườn, ai nấy đều rất ngạc nhiên khi
thấy mọi nhu cầu của mình mong muốn đều được bà cúng dường đầy đủ. Từ
đó, quý thầy không dám khởi niệm lăng xăng, sợ bà hay biết được sẽ chê
cười. Do đó quí thầy càng nỗ lực siêng năng, tinh cần tu tập, nên tất cả
quý thầy đều chứng quả vị A-la-hán.
Biết được sự thành tâm của bà già và nhân duyên tốt đẹp của chư vị
thánh đệ tử, Thế Tôn tán thán công đức tu hành của quý thầy và không
quên khen ngợi bà già thiện tri thức kia. Chúng ta thấy rõ ràng ngày xưa
chư Tỳ kheo tu hành mau chứng đạo nhờ gặp bậc minh sư chân chánh, thầy
lành bạn tốt lại được phương tiện hỗ trợ, vật thực đầy đủ, quí thầy khỏi
cần lo lắng cưu mang nên tất cả đều tập trung vào đề mục để chuyên tu
nên mau chứng đạo.
Một hôm, có thầy Tỳ-kheo nghe chuyện, đến thỉnh cầu đức Phật cho phép
đến khu vườn để được bà già chu cấp đúng như ý nguyện, Như Lai Thế Tôn
chấp thuận.
Trên đường đi đến chỗ bà lão, vị Tỳ-kheo khởi niệm muốn bà lão chuẩn
bị cho mình một giường tòa để nghỉ ngơi, cho ăn những món ưa thích. Biết
được ý niệm ấy, bà già ra đón thầy tận cổng ngoài. Bà thưa: “Xin mời
Đại đức vào trong nghỉ ngơi, giường tòa con đã đã chuẩn bị sẵn rồi.”
Thầy Tỳ-kheo ngạc nhiên đến sững người, tại sao mình mới nghĩ như
vậy mà bà lão đã biết? Để xem các bữa ăn của mình sắp tới bà lão sắm
soạn thế nào? Quả không sai, những gì thầy mong muốn đều được bà lo đầy
đủ không thiếu món gì.
Lúc đầu thầy Tỳ-kheo rất hoan hỷ trong lòng, nhưng nghĩ lại, thầy đâm
ra lo sợ. Bởi mình vừa muốn ăn món gì, cần vật dụng nào, bà già liền
cho người mang tới ngay. Vậy mình tu mà còn khởi lòng tham cầu nhiều
quá. Như vậy ở đây mình nghĩ gì bà già này đều biết hết, thầy Tỳ-kheo
cảm thấy bất an trong lòng, lo sợ đủ điều, thầy xin cảm ơn bà và lặng lẽ
rút lui.
Trên đường trở lại Tịnh xá, thầy Tỳ-kheo gặp đức Phật và Tăng đoàn
đang khất thực. Thầy Tỳ-kheo liền tiến đến trước mặt Thế Tôn quỳ xuống
đảnh lễ và thưa: “Bạch Thế Tôn, nay con trở lại Tịnh xá của mình tu
hành, bởi ở chỗ bà lão, con sợ mình suy nghĩ bậy bạ nhiều quá làm mất uy
tín của Tăng đoàn, nên con không dám ở lại trú xứ của bà ấy nữa.”
Được nhân duyên tốt, đức Phật khuyên thầy trở lại chỗ bà già tu tập,
bởi nơi đó sẽ cho thầy cơ hội phát triển công năng đạo hạnh tốt nhất.
Vâng lời đức Phật, thầy trở lại khu vườn bà lão, lần này thầy không dám
lơ là, hễ khi vừa có một tạp niệm dấy lên, thầy liền buông xả không bám
víu, cứ thế, thầy miên mật chánh niệm trong từng phút giây không gián
đoạn. Nhờ vậy chẳng bao lâu thầy chứng quả A-la-hán.
Qua câu chuyện trên, cho ta một bài học quý báu của cuộc đời. Việc tu
tập ai cũng có phần, chỉ có điều là ta có quyết tâm tu hành đến nơi đến
chốn hay không? Việc tu hành không chỉ dành riêng cho người xuất gia mà
người tại gia cũng có phần. Người tại gia, nhờ có phước đức, không phải
bận rộn lo ăn, lo mặc, nên việc tu hành được thuận tiện, dễ dàng như bà
già kia. Còn người xuất gia, không phải lo lắng, mọi việc đều có người
sắp xếp giúp đỡ, việc còn lại là ta có dám can đảm buông bỏ hết mọi vọng
niệm hay không? Vì vậy, việc tu hành chứng quả không dành riêng cho
người xuất gia mà người tại gia cũng có phần.
Người xuất gia cần phải nhớ rằng, hằng ngày nhờ thọ dụng của đàn-na
tín thí tứ sự cúng dường, phải mang nợ nần chồng chất, nếu không cố gắng
tu hành thì tự chuốc họa vào thân. Ngày nay có một số Tăng, Ni vì sợ
thọ dụng của đàn-na tín thí mà tu tập không đạt kết quả phải mang tội,
nên họ tự thân kiếm sống bằng các hình thức thế gian như gieo trồng hoa
màu, sản xuất dụng cụ tiêu dùng, thực phẩm chay, hay mở quày bán kinh
sách, văn hóa phẩm v.v…Những hình thức tự tìm cách thức nuôi sống bản
thân để tu hành là rất tốt, nếu mình không say đắm vào công việc mà xao
nhãng hành trì, tu tập. Ngược lại, người thọ nhận phẩm vật cúng dường
của đàn-na tín thí là cách thức lúc nào cũng thấy mình được răn nhắc
phải tu tập, hành trì. Người quyết chí tu thân, lập hạnh thì không sợ
mang tội vì thọ nhận phẩm vật cúng dường.
BỐ THÍ BA LA MẬT
Bố thí Ba-la-mật là gì? Tại sao ta phải thực hành bố thí Ba-la-mật?
Bố thí Ba-la-mật là bố thí vật chất lẫn tinh thần. Khi ta đem của cải
vật chất hay sự hiểu biết tặng, cho người khác vô điều kiện, không có
bất cứ một dụng ý hay yêu cầu nào, ta phát tâm bố thí một cách hoan hỷ,
không cầu lợi, không cầu danh, kể cả khi thực hành bố thí bị người nhận
bố thí làm điều trái ý, nghịch lòng, mà tâm người bố thí vẫn hoan hỷ,
không phiền muộn, khổ đau. Thực hành bố thí với tấm lòng như thế thì gọi
là bố thí Ba-la-mật.
Nói cách khác, bố thí Ba-la-mật là cho những gì khó cho dù đau khổ
đến tận cùng, ta vẫn một lòng quyết chí không buồn khổ, không ân hận hay
nuối tiếc, dám cho những gì khó cho.
Ngày xưa, ngài Xá-lợi-phất khi nghe đức Phật giảng về hạnh bố thí Ba-la-mật liền phát nguyện thực hành ngay Bồ-tát đạo.
Trong mười đệ tử lớn của đức Phật, Tôn giả Xá-lợi-phất là người trí
tuệ bậc nhất, nên được Tăng chúng gọi là Tướng Quân Chánh Pháp. Muốn
thực hành bố thí Ba-la-mật theo lời Phật dạy, ngày hôm đó, trên đường du
hóa, Ngài khởi nghĩ, hôm nay mình sẽ thực hành bố thí vô điều kiện.
Biết được tâm niệm của ngài Xá-lợi-phất, một Thiên nhân Đại Phạm
Thiên liền biến hóa làm một người phàm ngồi khóc bên vệ đường. Ngài Xá
-lợi-phất đi ngang qua thấy vậy liền hỏi:
- Vì sao ông ngồi đây khóc lóc thế này? Chắc là có duyên sự gì không
giải quyết được, ông nói ra tôi có thể giúp được điều gì chăng?
Người ấy nói:
- Chẳng giấu gì Ngài, những điều tôi đang cần khó ai có thể giúp được.
Nghe vậy, ngài Xá-lợi-phất nói:
- Không sao, bất cứ điều gì tôi cũng có thể giúp ông được.
Người ấy mừng rỡ bạch rằng:
- Thưa Ngài, mẹ tôi đang bệnh nặng, thầy thuốc nói phải có con mắt của người tu hành hòa với thuốc mới chữa khỏi bệnh.
Chẳng cần suy nghĩ, ngài Xá-lợi-phất liền móc con mắt trái của mình đưa cho người ấy.
Người ấy nói:
- Không được rồi thầy ơi, thầy thuốc bảo phải dùng con mắt bên phải mới chữa được bệnh này.
Nghe vậy, ngài Xá-lợi-Phất hơi chựng lại một chút, rồi mạnh tay móc tiếp con mắt bên phải đưa cho người đó.
Người ấy cầm hai con mắt ném xuống đất rồi dùng chân chà nát.
Ngài Xá-lợi-phất nghe biết người ấy làm như thế không dằn được tự chủ
liền thoái thất bồ đề tâm. Từ đó, ngài Xá-lợi-phất thấy thực hành bố
thí Ba-la -mật khó quá nên Ngài không phát tâm thực hành Bồ-tát đạo nữa.
Đức Phật nhờ phát tâm hành Bồ-tát đạo từ vô số kiếp, Ngài đã làm được
những việc khó làm, nhẫn được những điều khó nhẫn, giúp vô số chúng
sinh được an lạc, giác ngộ, giải thoát, tùy theo tâm nguyện chúng sanh
mà bố thí, vì vậy Ngài mới thành Phật quả
Bố thí cũng có nghĩa là buông xả tâm tham đắm, dính mắc nơi mỗi con
người. Và Bố thí Ba-la-mật là đem cho vật chất hay tinh thần hoặc là
thân này phải chết để giúp đỡ cho người thoát khổ mà tâm vẫn hoan hỷ,
không chấp mắc, không hối hận, tiếc nuối hay mong cầu.
Chúng ta thấy, ngài Xá-lợi-phất là bậc đệ nhất trí tuệ mà khi phát
tâm thực hành bố thí Ba-la-mật vẫn còn bị thoái thất Bồ-đề tâm thì đây
không phải là việc đơn giản ai làm cũng được. Thực hành kết quả việc bố
thí Ba-la-mật phải là người phát tâm cầu Phật quả, đời đời, kiếp kiếp
vì lợi ích chúng sanh, lấy niềm vui thiên hạ làm niềm vui chính mình mới
được.
Muốn vậy, khi thực hành bố thí không phân biệt thân hay thù, mà chỉ
tùy duyên, tùy thời cho phù hợp. Muốn đạt đến sự trọn vẹn của Bố thí Ba-
la-mật, chúng ta phải bố thí với lòng thành kính, thành tâm nghĩ rằng,
bố thí là trách nhiệm và bổn phận của người tu theo đạo Phật.
Bồ-tát bố thí Ba-la-mật luôn sẵn sàng đáp ứng nhu cầu cần thiết của
chúng sanh, không phân biệt thân hay thù bằng nhiều cách như tài thí
(thí các loại tiền bạc, của cải vật chất), nội thí ( cho những gì đang
có trong thân thể này) Pháp thí (dùng lời nói chỉ cho chúng sanh hiểu
thấu được lý nhân quả, nghiệp báo để tránh xa những điều xấu ác, hay làm
các việc thiện lành.)
Bồ-tát sẵn sàng bố thí tất cả, không bao giờ có sự hối tiếc hay phiền
muộn dù phải chịu khổ, chịu chết thay cho chúng sanh. Bố thí như thế
mới gọi là bố thí Ba-la-mật.
Tại sao Bồ-tát thực hành bố thí Ba-la-mật?
Bởi vì Bồ tát là người đang trên đường tiến tới giác ngộ Phật quả,
cho nên mỗi khi làm việc gì có lợi cho chúng sanh, Bồ-tát đều phát
nguyện và hồi hướng, nhờ thế tâm từ bi của Bồ-tát càng thêm tăng trưởng
và trong hạnh bố thí, chỉ có bố thí Ba-la-mật là phước quả cao hơn tất
cả.
Bồ-tát là người phát tâm cầu thành Phật quả để hóa độ chúng sanh
thoát khỏi khổ đau, sanh tử luân hồi. Vì vậy, trong suốt quá trình dấn
thân, tu học, hành đạo, Bồ-tát luôn phát Bồ-đề tâm cho đến lúc thành
Phật.
Người mới phát tâm cầu làm Bồ-tát phải có hai điều kiện tất yếu là
phát nguyện và hồi hướng. Ngày trước, Bồ-tát Sĩ-đạt-ta (Phật Thích Ca
sau này) cách nay 2600 năm đã phát nguyện dưới cội Bồ-đề rằng: “Ta
dù thịt nát xương tan, nếu không giác ngộ thành Phật để cứu độ chúng
sanh, ta quyết không rời khỏi chỗ này và những gì ta biết được, chứng
được cùng với các việc làm thiện ích, ta xin hồi hướng cho tất cả chúng
sanh cùng chung hưởng.”
Phát nguyện là để giữ vững ý chí, lập trường của mình khi gặp trở ngại, khó khăn. Phát là phát cái tâm làm các việc thiện lành, còn nguyện
giống như một lời thề nguyền, để ta ghi nhớ mà quyết tâm phấn đấu khi
gặp chướng duyên hay trở ngại. Mỗi khi làm được việc lợi ích gì, ta đều
hồi hướng hết cho tất cả mọi loài chung hưởng thì phước báu của ta mới
được tăng trưởng.
Bởi vậy, phát nguyện và hồi hướng công đức là việc làm rất quan trọng
của Bồ-tát để hướng đến bố thí Ba-la-mật và thành tựu Phật quả.
Tóm lại, bố thí Ba-la-mật là bố thí bình đẵng, không phân biệt thân,
sơ giàu, nghèo. không bao giờ hối tiếc hay phiền muộn trong cả ba nội
dung: tài thí, nội thí và pháp thí.
CÚNG DƯỜNG TAM BẢO
Tam Bảo là ngọn đèn sáng giúp con người vượt qua tăm tối vô minh. Tam
Bảo có khả năng chuyển hóa phiền não khổ đau thành an vui, hạnh phúc.
Nhờ Tam Bảo ta biết được điều hay, lẽ phải, biết rõ thật sự sống của con
người và muôn loài đều phải cưu mang, nương nhờ lẫn nhau. Vì vậy, người
tu hành theo đạo Phật cần phát triển lòng thương yêu, tinh thần trách
nhiệm và bổn phận giúp đỡ, gìn giữ sự sống cho mình và muôn loài chúng
sanh. Do đó Tam Bảo (Phật, Pháp, Tăng) như ba viên ngọc quý, không gì
có thể so sánh được. Và Tam Bảo có sáu ý nghĩa không thể nghĩ bàn:
Một là nghĩa hy hữu, tức là hiếm có, khó được như vàng, bạc, kim
cương, ngọc quý… người nghèo không thể có được. Phật, Pháp, Tăng cũng
vậy, dù người ở sát bên chùa, nhưng thiếu phước cũng khó gặp, không thể
thân cận với Tam Bảo nên gọi là hy hữu.
Hai là nghĩa ly cấu, tức lìa xa những việc xấu ác hay làm những việc
tốt lành, như châu báu thế gian, trong sáng, sạch đẹp không tỳ vết, khó
vấy bẩn. Phật, Pháp, Tăng cũng vậy, hay xa lìa phiền não, xấu ác nên gọi
là Ly cấu.
Ba là nghĩa thế lực, như châu báu ở thế gian có thế lực lớn, giúp
người vượt qua nghèo khó, còn dùng trị bệnh trúng độc. Tam Bảo cũng vậy,
có đủ sáu thông (Lục thông), tùy cơ ứng biến, dứt kiếp nghèo khổ, giải
thoát được sanh tử luân hồi nên gọi là thế lực.
Bốn là nghĩa trang nghiêm, như châu báu ở thế gian, làm đồ trang sức
cho thân thể trở nên xinh đẹp, lộng lẫy, ai cũng muốn ngắm nhìn. Tam Bảo
cũng vậy, lấy nhân quả, nghiệp báo, nhân duyên làm nền tảng giúp người
làm chủ bản thân, tâm trí trở nên sáng suốt, thanh tịnh, làm việc chân
chánh nên gọi là trang nghiêm.
Năm là nghĩa tối thắng, như châu báu ở thế gian quý hơn tất cả mọi
vật, nhưng xét cho cùng không quý bằng mạng sống con người. Tam Bảo cũng
vậy, là pháp thù thắng hơn hết giúp người vượt qua nỗi khổ, niềm đau,
sống được an vui, hạnh phúc nên gọi là tối thắng.
Sáu là nghĩa bất biến (không thay đổi) như vàng ròng ở thế gian, dù
đập, nấu, mài, dủa vẫn không thay đổi bản chất. Tam Bảo cũng vậy, người
thân cận Tam Bảo tất được an vui, hạnh phúc, không có gì cao hơn, hay
hơn, không ai có thể làm tốt hơn, không bị vô thường chi phối, nước
không thể cuốn trôi, lửa không thể thiêu đốt nên gọi là bất biến.
Vì vậy, thực hành cúng dường Tam Bảo là phước báu thù thắng hơn tất
cả, bởi nhờ sự cúng dường này mà Tam Bảo được lan truyền rộng khắp và
trường tồn ở thế gian để nhiều người nương tựa, tu học, thực hành những
lời Phật dạy, vượt qua cạm bẫy cuộc đời.
Phật là người tự tin ở khả năng chính mình,
nỗ lực tu tập, hành trì cho đến giác ngộ hoàn toàn, không còn sự trói
buộc và sai sử của các thứ dục lạc thế gian mà người thường tình khó
vượt qua nỗi.
Pháp là những lời dạy chân chánh, thiết thực của chư Phật giúp người tu tập, hành trì vượt qua nỗi khổ, niềm đau cuộc đời.
Tăng là những người tu hành theo đạo Phật
có nhiệm vụ truyền bá những lời Phật dạy, gìn giữ chùa chiền, kinh tạng,
tạo điều kiện cho mọi người thân cận Tam Bảo, học tập, hành trì những
lời Phật dạy để có được an vui, hạnh phúc trên cuộc đời.
Do đó, thực hành cúng dường Tam Bảo là điều cần thiết giúp cho Tăng,
Ni có điều kiện gìn giữ, trải rộng và phát huy tốt vai trò của Phật
pháp. Đồng thời chư Tăng, Ni nhận sự cúng dường Tam Bảo phải ý thức về
trách nhiệm của mình, tự giác tu hành, không lơ là, giãi đãi, vì Tăng,
Ni có trọng trách vô cùng lớn lao, trên cầu thành Phật, dưới hóa độ
chúng sanh, giúp mọi người tin sâu nhân quả, sống biết thương yêu, đùm
bọc, giúp đỡ lẫn nhau, không ỷ lại vào đấng quyền năng nào, mà sống có
trách nhiệm về mọi hành vi tạo tác của mình.
Tóm lại, việc gieo trồng phước đức thông qua bố thí, cúng dường là
cách thức bán đi cái nghèo tốt nhất, nhanh nhất, đồng thời cũng là
phương tiện giúp mọi người gần gũi nhau trên tinh thần tương thân, tương
ái, tương trợ lẫn nhau. Đó là pháp yếu của đạo Phật đi vào lòng người
tốt đạo đẹp đời.
Người người làm việc thiện
Nhà nhà làm việc thiện
Mọi người giúp đỡ nhau
Tên truy cập:
Mật khẩu:
Ghi nhớ tôi
Thật là may mắn, VC bóc tem Entry này nhé! Chúc bạn vạn sự an lành