BỐ THÍ TÙY DUYÊN
Có một gia đình muốn mở tiệc nhân ngày sinh nhật của đứa con, nhưng
nhà quá nghèo không biết xoay sở sao cho đủ phương tiện đãi khách.
Còn khoảng một tháng nữa là tới ngày sinh nhật, nhà có nuôi một con
bò sữa, nên gia đình muốn bữa tiệc hôm ấy phải có món sữa bò tươi, thế
là hai vợ chồng nhất trí từ nay đến ngày sinh nhật con, không vắt sữa
hàng ngày nữa, mà để dành đến ngày sinh nhật con vắt luôn một thể.
Đến ngày sinh nhật, hai vợ chồng vui mừng tin chắc rằng, gia đình sẽ
vắt được rất nhiều sữa đãi khách. Nào ngờ, cả hai vợ chồng cố vắt mãi,
nhưng chẳng được giọt sữa nào. Hai vợ chồng buồn bã, hỡi ôi! Xem như
trận này gia đình mất “cả chì lẫn chài,” uổng công cả tháng trời để
dành, mà nay con bò không cho lấy một giọt sữa. Và cũng từ đây, con bò
bị tắt sữa luôn, không có khả năng sản xuất sữa được nữa, vì lâu ngày
không vắt sữa.
Câu chuyện trên đã cho ta một kinh nghiệm sống trong cuộc đời. Với
quan niệm chờ cho có nhiều tiền rồi mới thực hành hạnh bố thí không khác
gì chuyện để dành sữa ở con bò, không có cơ hội có sữa. Nếu ta muốn
thực hành bố thí mà nghĩ như vậy thì suốt đời, suốt kiếp ta không giúp
gì được cho ai, vả lại, nó sẽ làm lép đi hạt giống từ bi trong ta. Bố
thí có nhiều cách, nếu không có tiền của, thấy người khác bố thí, cúng
dường ta sanh tâm hoan hỷ, vui theo thì ta và người bố thí đều có phước
báu bằng nhau.
Ngày xưa, có một vị Tỳ-kheo nghe nói như vậy, mới thắc mắc hỏi đức
Phật: Người bố thí, cúng dường có phước là lẽ đương nhiên, còn người tùy
hỷ vui theo tại sao có phước ngang bằng? Đức Phật đưa ra một ví dụ: Có
người đang đốt một ngọn đèn, rồi có hàng trăm người đem đèn tới mồi
theo. Ta thấy, ngọn đèn kia vẫn cháy sáng không mất, và hàng trăm ngọn
đèn khác cũng được cháy lên tỏa sáng khắp nơi.
Cũng vậy, người cúng dường được phước giàu sang trong hiện tại và mai
sau là lẽ đương nhiên rồi. Còn người tùy hỷ khi thấy người khác thực
hành bố thí, cúng dường, không sanh tâm tật đố, ganh ghét được phước
không nóng giận, bởi nóng giận dễ dẫn đến hận thù, rồi tìm cách trả đũa
không có ngày dứt. Do không ganh ghét, tật đố, oán giận nên người ấy
sống được an lành, hạnh phúc. Vì thế đức Phật nói hai người phước báu
bằng nhau là như vậy.
-Bố thí có hai dạng: Bố thí trong sạch và bố thí không trong sạch.
-Bố thí vì cầu danh muốn ai cũng biết đến mình, thấy mình là trung tâm của vũ trụ mình hơn người không ai bằng.
Hoặc vì ganh ghét mà bố thí, bố thí cho bỏ ghét, hoặc bố thí vì muốn
dụ dỗ người ta mê hoặc lòng người, bố thí để chứng tỏ mình là người giàu
có hơn người hay bố thí để lấy lòng cấp trên. Nói tóm lại tất cả hành
vi bố thí vì tư lợi cá nhân, vì tâm xấu xa, ích kỷ, vì tâm muốn hơn
người được gọi chung là bố thí không trong sạch. Còn các hành động bố
thí:
- Vì thương người mà cho,
- Vì bổn phận mà cho,
- Vì hy sinh mà cho,
- Vì giác ngộ mà cho.
Thực hành bố thí như trên là vì lợi ích cho người được gọi là bố thí
trong sạch, ta vì tâm từ bi, vì lòng thương người mà bố thí, không có
tâm mong cầu người biết ơn hay đền ơn đáp nghĩa. Người bố thí cúng dường
với tâm bình đẳng không phân biệt thân sơ, tùy duyên cúng dường giúp đỡ
không tính toán lợi hại thì mới được phước báu không thể nghĩ bàn.
Tóm lại, người bố thí cúng dường với tâm bình đẳng, không phân biệt
thân sơ, tùy duyên mà bố thí cúng dường thì người đó được gọi là người
đại bố thí hay đại thí chủ.
BỐ THÍ VỚI TÂM THÀNH
Thời đức Phật còn tại thế, có một trưởng giả Tu-đạt là nhà giàu nhất
nước Kiều-tát-la do vua Ba-tư-nặc trị vì. Một hôm, sau chuyến buôn hàng
sang nước Ma-kiệt-đà, mua bán xong ông về nhà người anh rể nghỉ ngơi.
Thường lệ, khi ông về tới, mọi người trong nhà đều ra ngõ đón tiếp ân
cần, nhưng hôm nay ông thấy không ai để ý đến ông cả, thật lạ lùng. Ông
lấy làm ngạc nhiên hỏi người anh rể, thì ra cả nhà đang bận rộn việc
chuẩn bị đồ ăn, thức uống để cúng dường 1250 vị Tỳ-kheo trong Tăng đoàn
của đức Phật. Lần đầu tiên nghe đến đức Phật, Tu-đạt thắc mắc với người
anh rể:
- Phật là gì mà mọi người tôn kính đến thế?
Người anh rể bảo rằng:
- Đức Phật trước đây là Thái tử Tất-đạt-đa, con vua Tịnh-phạn và
Hoàng hậu Ma-da, ông là người được kế thừa ngôi vua, mà ông từ bỏ ngôi
vị, cung điện nguy nga, vợ đẹp, con xinh xuất gia tu hành, nay đã chứng
quả Bồ-đề Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.
Tu-đạt nghe qua, bổng trong lòng cảm thấy bồn chồn muốn được gặp đức
Phật ngay tức khắc, nhưng lúc này là ban đêm, trời tối đành để lại sáng
mai. Vì mong mỏi gặp đức Phật nên cả đêm hôm ấy ông thổn thức trong lòng
không thể nào ngủ được.
Tờ mờ sáng hôm sau, ông đã có mặt tại Tịnh xá Trúc Lâm, nơi đức Phật
tịnh dưỡng. Vừa vào tới, ông nghe một giọng nói trầm hùng: “Này Tu-đà
Cấp Cô Độc, thời cơ đã đến rồi đó.” Tu Đạt rất đỗi ngạc nhiên, tại sao
cái tên Tu-đà của ta chỉ có người trong gia tộc ta mới biết và không ai
được gọi, thế mà ở đây lại có người biết và gọi mình cái tên này? Tu Đạt
nghĩ rằng, hay là ở đây có người bậc trên của gia tộc mình? Trong lúc
còn đang ngơ ngẩn, ông thấy một người tướng mạo trang nghiêm, điềm đạm
đi tới gần ông và nói rằng:
- Ta là người mà ông muốn gặp đây.
Tu-đạt liền quỳ xuống đảnh lễ đức Phật, trong lòng cảm thấy dấy lên
niềm phấn khởi vô biên đến rơi nước mắt. Và ngay lúc đó, ông được đức
Phật khai thị pháp môn căn bản cho người tại gia.
Nghe xong bài pháp, Tu-đạt Cấp Cô Độc chứng quả Tu-đà-hoàn, nghĩa là
được vào dòng Thánh, không còn đọa lạc trong ba đường dữ: địa ngục, súc
sanh và ngạ quỷ. Sau đó ông phát nguyện quy y Tam Bảo, giữ năm điều đạo
đức và phát tâm cúng dường hộ trì Tam Bảo, suốt đời giúp đỡ người nghèo
khó. Nhờ tín tâm thuần thục, ông xin đức Phật cho xây dựng một Tịnh xá
lớn để chư Tăng có chỗ tu hành. Đức Phật chấp nhận lời thỉnh cầu của
ông.
Cấp Cô Độc có nghĩa là cung cấp sự cần thiết cho người cô độc, côi
cút, không nhà cửa, không người nuôi dưỡng, nghèo khổ. Trong đời, ông
vốn cũng đã có lòng nhân từ, thường giúp đỡ người không phân biệt thân,
sơ. Đến khi gặp đức Phật, ông càng mở rộng lòng nhân từ.
Từ đó, ông đi tìm mua một khu đất rộng rãi, địa điểm thuận lợi, để
xây dựng một Tịnh xá lớn cho chư Tăng tu tập, hành trì. Ông tìm mãi mà
không thấy nơi nào vừa ý ngoài khu vườn của Thái tử Kỳ-đà con vua
Ba-tư-nặc. Biết Thái tử không bao giờ bán đất, nhưng vì quá ưa thích,
ông bạo gan đến hỏi mua, Thái tử Kỳ-đà bảo rằng:
- Tôi sẵn sàng bán khu vườn cho ông với điều kiện ông về đem vàng miếng trải đến đâu tôi bán đến đó.
Không ngờ, Cấp Cô Độc đồng ý, cho người nhà chở vàng đến lót gần kín
khu vườn, chỉ còn một khoảnh nữa là xong. Trong lúc chờ người nhà chở
vàng đến tiếp, ông đứng trầm tư, Thái tử Kỳ-đà đến hỏi:
- Ông tiếc của hay sao mà đứng ngẫn người ra như thế?
Cấp Cô Độc trả lời:
- Thưa Thái tử, không phải thế đâu. Tôi đang tính xem lấy vàng ở kho nào cho thuận lợi mà.
Nghe vậy, Thái tử Kỳ-đà cảm phục tấm lòng cao cả của ông đối với đức Phật và Tăng đoàn, Thái tử tuyên bố:
- Kể từ giờ phút này, đất khu vườn này thuộc về ông, ông được quyền
xây dựng Tịnh xá cho chư Tăng tu tập, tôi chỉ nhận số vàng theo giá trị
đất, còn rừng cây trong vườn tôi xin dâng cúng cho Tăng đoàn của đức
Phật.
Ngày nay, đọc các bản kinh, chúng ta thường thấy: Tôi nghe như vầy, một thời Đức Phật ở rừng cây Kỳ-đà, vườn Cấp Cô Độc…Đây chính
là Tịnh xá trong khu vườn do Cấp Cô Độc và Thái tử Kỳ-đà cúng dường.
Đặc biệt, trong 49 năm thuyết pháp, đức Phật đã trú tại Tịnh xá này
trong 25 mùa An cư kiết hạ.
Nói về Trưởng giả Cấp Cô Độc sau khi gặp đức Phật, ông luôn hết lòng
tôn kính cúng dường Tam Bảo và giúp đỡ người cô độc bần cùng với lòng
chí thành chí kính của mình. Suốt mấy chục năm thực hành bố thí cúng
dường, cuối cùng tài sản nhà ông cũng cạn kiệt, như trăng sáng đến lúc
tàn, như bị lũ lụt cuốn trôi, ông hết gia tài sự nghiệp, cho đến khi cả
nhà ông phải dùng cháo thay cơm mỗi bữa, nhưng ông vẫn sớt bớt phần ăn
của mình để cúng dường chư Tăng, mặc cho đức Phật khuyên ông không nên
cúng dường nữa.
“Sau cơn mưa trời lại sáng,” “hết cơn bỉ cực đến hồi thái lai,” chẳng
bao lâu sau, gia đình ông làm ăn mua bán trúng mùa, làm gì trúng nấy,
lợi nhuận thu được nhiều vô số kể, ông có lại tài sản của cải nhiều hơn
số tài sản, vàng bạc bị cuốn trôi theo dòng thác thực hành bố thí, cúng
dường trước đây. Và ông tiếp tục thực hành bố thí, cúng dường như trước.
Đạo lý nhân quả nhà Phật giúp ta sáng ngời tình nhân loại trong hạt
giống từ bi của hạnh bố thí. Đó là hạt nảy mầm quả giác ngộ và giải
thoát. Qua đó, ta thấy hành động bố thí quan trọng ở tâm chân thành và
lòng kính cẩn như trường hợp của Cấp Cô Độc, một lòng gieo duyên với
ruộng phước lớn. Và ông đã chứng quả “bất thoái chuyển” ngay trong hạnh
này.
Chúng ta không nghi ngại gì cả, phát tâm bố thí cúng dường là gởi
tiền vào ngân hàng “Nhân quả” được bảo toàn nguyên vẹn lại được sinh
lời, khi nào ta cần ngân hàng “nhân quả” này sẽ chi cấp cho ta sử dụng
không để ta thiếu thốn.
Trở lại câu chuyện Thái tử Kỳ-đà và Cấp Cô Độc, khu vườn của Thái tử
Kỳ-đà là nơi lý tưởng để xây dựng Tịnh xá, nhưng Thái tử Kỳ-đà giàu có
đâu cần tiền, đâu cần bán đất, nên Thái tử nói thách cao như vậy để Cấp
Cô Độc thối tâm, thối chí. Không ngờ Cấp Cô Độc đồng ý. Thái tử Kỳ-đà
bàng hoàng sửng sốt khi thấy Cấp Cô Độc chở nhiều xe vàng đến lót gần
kín đất khu vườn, làm cho Thái tử động lòng trắc ẩn, vui vẻ bán khu
vườn, nhưng không nỡ nhận đủ tiền bán cả đất lẫn vườn cây, mà Thái tử
chỉ nhận tiền đất còn rừng cây ông phát tâm cúng dường cho đức Phật. Đây
là tịnh xá thứ hai sau khi Phật thành đạo, và thứ nhất là Trúc Lâm Tịnh
Xá do vua Tần-bà-sa-la cúng dường tại thành Vương-xá.
Ngoài việc mua đất xây dựng Tịnh xá, Tu-đạt còn thường xuyên cúng
dường tứ sự cho chư Tăng. Ông phát tâm cúng dường Tam Bảo không mệt mỏi,
nhàm chán, ông còn luôn bố thí giúp đỡ những người cô độc nghèo khó
không nơi nương tựa. Vì vậy, ông được quần chúng nhân dân tặng danh hiệu
Cấp Cô Độc.
Trong lịch sử Phật giáo, Cấp Cô Độc là tấm gương sáng về hạnh bố thí
cúng dường để chúng ta học hỏi noi theo. Con người muốn hoàn thiện nhân
cách, lối sống, đạo đức … phải có sự học hiểu và tu tập hành trì. Người
có niềm tin sâu vào Tam Bảo, được chứng quả bất thối chuyển, người đó dù
có gặp nghịch cảnh, khó khăn như thế nào, họ cũng giữ vững tấm lòng tốt
của mình. Cấp Cô Độc là người như vậy, cho nên từ ngày ấy cho đến bây
giờ mọi người, mọi giới, mợi thành phần đẵng cấp trong xã hội ngưỡng mộ,
đều quý kính Ngài.
Bố thí cúng dường là con đường dẫn đến tình yêu thương nhân loại ngày
thêm sâu sắc, gần gũi, gắn bó với nhau hơn và sự giúp đỡ, sẻ chia cùng
nhau là cách thức xóa bỏ ân oán hận thù để ngồi lại bên nhau, dùng tình
thương xây dựng cuộc đời.
Bố thí cúng dường là nấc thang đầu tiên của hàng Bồ-tát để từng bước
tiến lên con đường Phật đạo. Nhờ bố thí cúng dường mà tâm ta được an
lạc, thảnh thơi, thấy ai cũng là người thân thương của mình, không còn
thấy ai là kẻ thù, nên mọi người dễ dàng gắn bó yêu thương hơn.
Trong dân gian Việt Nam thường nói “Ăn thì hết, cho thì còn.” Câu nói
này nghe như ngược đời, nhưng thực tế quả thực không sai, cái gì ta
tiêu xài, hưởng thụ cho riêng mình thì không còn, cho nên nói “ăn thì
hết.” Còn cái gì ta đem giúp người thì đó mới là cái để dành, cho nên
nói: “cho thì còn” là vậy.
Phật dạy, người biết gieo trồng phước đức thì trong hiện tại và tương
lai được đầy đủ, giàu có như ta có tiền gửi ngân hàng rút dần ra xài,
còn người không biết gieo trồng phước đức thì như người có đồng nào xài
đồng nấy, luôn phải chịu nghèo khó, vất vả cả đời mà chẳng có của dư.
TÀI THÍ, NỘI THÍ
Tài thí là dùng phương tiện tiền bạc, của cải vật chất chia sẻ cho người nghèo khổ, thiếu thốn bất hạnh.
Nội thí là bố thí chi phần trong thân thể mình như hiến máu,
hiến các bộ phận của cơ thể để cấy ghép chữa bệnh cho người khác hay
hiến xác cho khoa học v.v…Người bố thí bằng hình thức nội thí tức là
thực hành Bồ-Tát đạo. Đức Phật đã từng kinh qua thực hành Bồ-Tát đạo,
trong một kiếp quá khứ, Ngài đứng trên núi trông thấy một con cọp mang
thai bị đói, không săn được mồi, thương cho tình cảnh con cọp sẽ bị chết
trước khi sinh con, Ngài từ trên cao nhảy xuống làm thức ăn cho cọp.
Nhờ đó con cọp được khỏe lại đi tìm thức ăn và sinh con vẹn toàn.
Việc thực hành tài thí (bố thí tài sản) là việc dễ dàng, ai cũng có
thể làm được, nhưng việc thực hành nội thí (bố thí thân xác) là việc khó
làm hơn, rất hiếm có ở thế gian. Ngày nay với nền khoa học hiện đại,
việc bố thí bộ phận cơ thể người hay hiến xác cho khoa học tương đối phổ
biến, chứ ngày xưa chỉ có các bậc Bồ-Tát mới thực hành hạnh nguyện này
nhờ vào lòng Từ Bi cao cả mới dám xả thân vì lợi ích chúng sanh như đức
Phật.
Thực hành bố thí với tâm chân thành, hoan hỷ và đúng lúc thì mới đạt
được giá trị cao như người khát cần nước, người rét cần lửa, kẻ trần
truồng cần y phục…Thực hành bố thí với tâm vô lượng và đúng thời, đúng
lúc như vậy, theo Kinh Pháp Hoa thì cả người cho và người nhận đều được lợi lạc.
Khi bố thí giúp người
Mặt thân tâm vui vẻ
Cảm ơn người đã nhận
Chẳng cần cầu đáp nghĩa
Người nhận vật bố thí
Hoan hỷ vì được của
Người thí hạnh phúc hơn
Vì gieo được phước lành.
Theo lời Phật dạy, sự sống trong vũ trụ này luôn được gắn bó với nhau
từ con người cho đến muôn loài. Cho nên, nhân quả ở người làm phước
cũng rất đa dạng như có người dệt vải ta mới có áo mặc; có người làm
ruộng ta mới có cơm ăn v.v… Người xuất gia theo đạo Phật thọ nhận vật
phẩm cúng dường của Đàn-na tín thí để nuôi sống bản thân tức là đang vay
nợ theo luật nhân quả. Vậy người xuất gia trả nợ bằng cách nào? Người
xuất gia phải tu hành miên mật, chân chính, hướng dẫn cho Phật tử biết
điều hay lẽ phải, tránh xa tội lỗi, đó là cách trả nợ cao thượng cho
Đàn-na tín thí, còn nếu không làm tròn trách nhiệm, bổn phận, người xuất
gia cũng phải trả món nợ này theo định luật nhân quả.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét