ai thấy pháp , người ấy thấy Phật ,ai thấy Phật
người ấy thấy pháp
Ai
thấy pháp người ấy thấy Phật, ai thấy Phật người ấy thấy pháp
Nội dung
mà chúng ta sẽ thảo luận trong bài viết ngắn này là “Ai thấy pháp là người ấy
thấy Phật, ai thấy Phật người ấy thấy pháp”. Thật ra chủ đề này không phải tác
giả tự đặt mà vốn là lời Phật dạy, được tìm thấy nhiều nơi trong kinh A hàm hay
Nikaya.
Nguyên nhân đức Phật nói bài pháp này, vì tôn giả Vakkali ở nhà thợ
gốm, đang bị bịnh nặng, sắp lâm chung, nhưng lòng rất muốn diện kiến dung nhan
đức Thế Tôn và đảnh lễ Ngài lần cuối trước khi nhắm mắt lìa đời, nhưng không thể
nào đến nơi Thế Tôn ở được, cho nên Tôn giả Vakkali đã cho thị giả đến cung
thỉnh đức Thế Tôn đến nơi mình ở. Vì lòng từ mẫn đức Thế Tôn đã thân hành đến
thăm Tỷ kheo Vakkali. Sau khi đến đức Thế Tôn hỏi:
- Này Vakkali,
nếu ông không có gì trách mình về giới luật, vậy có gì phân vân hay hối hận
không ?
- Đã từ lâu,
bạch Thế Tôn, con muốn đến để được thấy Thế Tôn, nhưng thân con không đủ sức
mạnh để được đến thấy Thế Tôn..
- Thôi vừa
rồi, này Vakkali, có gì đáng thấy đối với cái thân hôi hám này. Này Vakkali. Ai
thấy pháp, người ấy thấy Ta, Ai thấy Ta, người ấy thấy pháp.[1].
Trên đây là
đoạn đối thoại giữa Thế Tôn và Vakkali. Qua mẫu đối thoại này, nó gợi ý cho
chúng ta hiểu rõ một vài vấn đề căn bản trong Phật pháp. Vấn đề trước tiên mà
chúng ta cần xác định nơi đây là. Đức Phật và Tỷ kheo Vakkali đứng hai vị trí
khác nhau. Tỷ kheo Vakkali đứng từ góc độ tình cảm, có lòng kính ngưỡng, muốn
đảnh lễ và tận mắt nhìn dung nhan đức Phật lần cuối trước khi nhắm mắt lìa trần.
Thế nhưng, đức Thế Tôn không đứng từ góc độ tình cảm này, an ủi
Vakkali.
Ngược lại Ngài
đã đứng từ góc độ một vị Đạo sư đến thăm Vakkali lần cuối và giáo dục Vakkali
nhận chân được chân lý để được giác ngộ và giải thoát, cho nên Ngài đã nói câu:
‘có gì đáng thấy đối với cái thân hôi hám này’ .
Theo tôi lời
nói này có hai ý nghĩa. Ý nghĩa thứ nhất mà Ngài muốn trao truyền cho chúng ta
là, Ngài là con người như bao nhiêu con người khác, do vậy thân thể của Ngài
cũng giống như bao nhiêu thân thể khác, cũng cần có sự ăn uống ngủ nghỉ, cũng có
trạng thái bịnh hoạn ốm đau và bài tiết. Những chất được bài tiết ra mùi tanh
hôi cũng giống như mọi người khác. Không nên có suy nghĩ ngây thơ cho rằng, đức
Phật không còn những hiện tượng này.
Nếu chúng ta
có cho rằng, Phật và chúng sanh khác nhau, sự khác nhau đó cũng chỉ là sự khác
biệt giữa nhận thức, tức là sự khác biệt giữa người đã giác ngộ (Buddha) và chưa
giác ngộ. Người đã giác ngộ không còn những loại khổ về mặt tâm lý, nhưng những
loại khổ về mặt tự nhiên vẫn còn, như nóng lạnh, bịnh hoạn.v.v...
Còn người chưa
giác ngộ, có cả hai loại khổ tự nhiên của vật lý và tâm lý. Thật ra nổi khổ lớn
nhất của con người là nổi khổ về tâm lý, không phải vật lý. Thứ hai, Ngài muốn
nói rằng, Vakkali là người sống quá nặng nề về tình cảm, quá chú trọng về mặt
hình thức bên ngoài của Như Lai, không thấy cái giá trị đích thực từ bên trong
mà Ngài đã chứng được dưới cội cây Bồ đề. Cái giá trị của đức Thế Tôn là chân lý
không phải là 32 tướng tốt hay 80 vẻ đẹp. Thế thì Vakkali muốn diện kiến cái
thân tướng của Thế Tôn để làm gì? Có ích gì cho sự thuyên giảm cơn bịnh trầm
trọng mà ông đang gánh chịu? Có giúp gì cho cái chết sắp cận kề mà Vakkali đang
đối mặt ?
Trước nổi đau
khổ này, chỉ có giáo pháp mà Thế Tôn đã chứng mới có thể làm chấm dứt hay tối
thiểu cũng làm giảm bớt sự đau khổ của Vakkali, cái pháp đó, chân lý đó Vakkali
cần phải diện kiến thấy được trước khi qua đời, nếu không sống đời sống xuất gia
vô ích, không có lợi gì cho mình huống gì là làm lợi lạc chúng
sinh.
Thế thì chân
lý mà Ngài chứng được dưới cội cây Bồ đề là gì ? Đó là đạo lý duyên khởi
(pratiya-samutpada), nguyên lý vận hành của con người và vũ trụ, trên thế gian
không có một vật, một người nào sinh tồn hay biến mất mà không theo nguyên tắc
này. Đây chính là ý nghĩa mà đức Phật trình bày trong “Kinh Tạp A hàm” với nội
dung như sau:
“Pháp duyên
khởi chẳng phải do ta làm ra, chẳng phải do người khác làm ra. Dù Như Lai có
xuất hiện hay không xuất hiện ở thế gian, pháp này vẫn tồn tại. Như Lai tự giác
ngộ pháp này, thành đẳng chánh giác...”[2]
Giáo lý mà đức Phật giác ngộ dưới cội cây Bồ đề là duyên khởi mà
duyên khởi là nguyên tắc vận hành của cuộc đời, không phải do đức Phật tự mình
sáng tạo ra mà nó là nguyên tắc vận hành của con người và vũ trụ, không có một
cái gì một người nào lại vận hành ngoài qui luật này, cho nên giáo lý duyên khởi
được gọi là chân lý. Từ chân lý trong nhà Phật được mang ý nghĩa như vậy, không
phải là lời nói hồ đồ, thiếu cơ sở.
Căn cứ từ giáo lý duyên khởi này, đức Phật chỉ ra bản chất con
người không có cái gì gọi là ngã (atmam) hay linh hồn trường cửu, các sự vật
luôn luôn ở trong trạng thái thay đổi chuyển dịch, sự chuyển dịch đó đức Phật
gọi là vô thường (anitya), không có một pháp nào đứng yên cố định. Sắc đẹp, sự
giàu sang, địa vị.... dù chúng ta có cố giữ đến đâu, rồi cũng phải chịu đổi thay
ở một lúc nào đó. Sự khác biệt giữa người trí và kẻ ngu chính là sự nhận thức
đúng hay sai, có nghĩa là thái độ của chúng ta như thế nào về thực trạng
này.
Người trí chắc
chắn không cưỡng ép làm một việc gì trái với qui luật, do vậy khi sự vật vô
thường chuyển dịch, người trí không vì vậy mà sinh buồn rầu lo âu hay có thái độ
chống đối, chỉ có kẻ ngu mới muốn bắt sự vật đứng yên theo ý mình. Muốn mà không
được là nguyên nhân sinh ra đau khổ.
Vì lòng thương
chúng sanh trầm luân trong đau khổ, đức Phật tùy theo căn cơ và trình độ khác
nhau của mỗi loại chúng sanh, dùng mọi phương tiện khác nhau chỉ cho chúng sanh
thấy được chân lý này, để họ được giác ngộ và giải thoát mà hình thành Tông
phái, phân chia có Tiểu có Đại.
Từ điểm này nó
gợi ý cho chúng ta hiểu, Pháp duyên khởi, vô thường, vô ngã là chân lý, những
phương tiện hay những hình thức giáo dục khác nhau, nó không phải là chân lý, vì
nó chỉ có giá trị, và phù họp với một đối tượng cụ thể và nhất định nào đó,
không thể là cái chân lý chung cho mọi con người và mọi xã hội khác nhau, cho
nên không được gọi là chân lý.
Ở đây tôi muốn
mọi người nên chú ý một điều rằng, Lòng ngưỡng mộ đó rất tốt và rất cần, nhưng
chúng ta không nên lẫn lộn lòng ngưỡng mộ này đồng nghĩa sự hiểu biết về Phật
pháp. Xuất phát từ lòng ngưỡng mộ tôn sùng đó, chúng ta đã phát ngôn rất bừa
bãi, đôi khi có thương tổn đến Phật pháp.
Ví dụ chúng ta
thường nói rằng, Phật pháp là chân lý, trong khi đó chúng ta giới thiệu một số
quan điểm về Phật pháp, nó hoàn toàn không liên hệ có giá trị gì với đời sống
con người, đôi khi lại có hại cho cuộc sống. Trong khi đức Phật nổ lực giới
thiệu, làm cho con người thấy rõ được chân lý để được giác ngộ và giải thoát thì
chúng ta làm ngược lại giới thiệu với con người xã hội với những quan điểm mù
mờ, đen tối, thiếu cơ sở, thiếu ánh sáng của khoa học.
Thế thì những
quan điểm đó làm sao gọi là chân lý được? Có thể điều đó đúng và họp lý cho một
phần tử nào đó trong xã hội, nhưng không phải là tất cả, cho nên không thể gọi
là chân lý. Đó chính là lý do tại sao đức Phật dạy: Tin ta mà không hiểu ta là
hủy báng ta. Hoạt động của khối óc và con tim là hai lãnh vực khác nhau, cả hai
đều cần cho sự sống của con người, nhưng không thể thay thế cho
nhau.
Trái tim mà
thay cho khối óc suy nghĩ sự việc thì cuộc đời sẽ xuất hiện biết bao sự lộn xộn
và rối rắm; Khối óc mà thay thế cho trái tim làm việc thì cuộc sống của con
người chẳng khác nào như sinh hoạt của tòa án, cho nên chúng ta không nên lẫn
lộn giữa khối óc và con tim. Theo tôi, nên sống với nhau bằng trái tim và nên
làm việc bằng khối óc.
Qua sự trình
bày trên nó giúp chúng ta lý giải câu: Ai thấy pháp, người ấy thấy Ta, Ai thấy
Ta, người ấy thấy pháp. Ở đây khái niệm Ta chỉ cho đức Phật, như vậy câu này
được hiểu là Ai thấy pháp, người ấy thấy Phật; Ai thấy Phật, người ấy thấy pháp.
Pháp ở đây chỉ cho giáo pháp duyên khởi. Ai thấy được pháp duyên khởi, người ấy
cũng thấy được trạng thái vô thường, vô ngã của vạn vật và ngay cả bản thân
mình.
Ai đã thấy
được vô thường vô ngã thì người ấy không thể chấp: “Cái này là của tôi là tôi là
tự ngã của tôi”, như vậy, được giác ngộ và giải thoát. Ở đây, khái niệm giác ngộ
và giải thoát là khái niệm mô tả về kết quả của sự thấy và biết, từ trong nhà
Phật thường dùng là trí tuệ, chính là kết quả sự tu tập của đức Thế Tôn dưới cội
cây Bồ đề. Sự giác ngộ này đã làm cho chính Ngài thoát khỏi mọi sự ràng buột khổ
đau, cho nên gọi là giải thoát. Bất cứ ai giác ngộ như Ngài cũng sẽ có những sự
giải thoát như Ngài không cao không thấp.
Đương thời
cũng đã có nhiều người của nhiều giai cấp khác nhau thực hành lời dạy của Ngài,
cũng đã được giác ngộ giải thoát. Sau khi sống trong giáo pháp của Ngài, được
giác ngộ giải thoát, họ mới cảm thấy rằng, sự khác biệt giữa đường lối tu tập
của đạo Phật và các tôn giáo truyền thống Ấn độ rất xa. Đức Phật thì khuyên con
người “Đến đạo Phật để thấy và biết, giải quyết khổ đau, chứ không phải để tin”
còn các tôn giáo khác thì đặt nặng niềm tin niệm chú và cầu
nguyện.
Đó chính là lý
do tại sao có nhiều người sau khi nghe đức Phật nói pháp bèn phát
biểu:
“Thật vi diệu
thay, Tôn giả Gotama! Tôn giả Gotama, như người dựng đứng lại những gì bị quăng
ngã xuống, phơi bày ra những gì bị che kín, chỉ đường cho kẻ lạc hướng, hay đem
đèn sáng vào trong bóng tối để những ai có mắt có thể thấy sắc. Cũng vậy, Chánh
pháp đã được Tôn giả Gotama dùng nhiều phương tiện trình bày, giải thích.”[3]
Như vậy, điểm
nổi bật của đức Phật Thích Ca Mâu Ni là sự giác ngộ giải thoát, không phải là 32
tướng tốt hay 80 vẻ đẹp, nguyên tắc để trở thành bậc giác ngộ giải thoát chính
là thấy được pháp duyên khởi vô thường vô ngã. Như vậy, ai muốn thấy Phật thì
người ấy phải thấy được pháp. Cũng vậy, ai đã thấy được pháp duyên khởi vô
thường vô ngã cũng có nghĩa là người ấy đã thấy Phật, vì khái niệm Phật với khái
niệm pháp chỉ cho người thấy chân lý và chân lý.
Như vậy, tỷ
kheo Vakkali nếu muốn diện kiến đức Thế Tôn cần nên diện kiến sự giác ngộ và
giải thoát, nếu như Vakkali muốn tỏ lòng ngưỡng mộ đức Thế Tôn thì Vakkali nên
thực hành giáo pháp của Ngài, nếu như Vakkali muốn đoạn trừ những nổi khổ đau
cho mình thì Vakkali chính mình phải giác ngộ lý duyên khởi vô thường và vô
ngã., còn nếu như Vakkali muốn hóa độ chúng sanh thì trước tiên Vakkali phải
giác ngộ chân lý. Đó là nội dung và ý nghĩa câu: “Ai thấy pháp, người ấy thấy
Phật; Ai thấy Phật, người ấy thấy pháp” khi Ngài khuyên tỷ kheo Vakkali lúc lâm
bệnh.
Dẫu rằng, đây
là lời dạy của Thế Tôn cho Tỷ kheo Vakkali trong quá khứ. Tôi tin rằng, nội dung
và ý nghĩa của nó vẫn còn có giá trị thiết thực cho Phật giáo ngày nay. Phải
chăng chúng ta đang cố tô son phết vàng ca ngợi 32 tướng tốt của đức Phật nhưng
chúng ta lại vô tình hay cố ý quên đi giáo pháp mà Ngài đã giác ngộ
?
Phải chăng với
lòng kính ngưỡng chúng ta dùng mọi lời tán dương, giới thiệu tính siêu việt của
hệ thống triết lý nhà Phật, nhưng chúng ta quên rằng thế hệ tuổi trẻ ngày hôm
nay là thế hệ được được trưởng thành trong xã hội tiến bộ về khoa học kỷ thuật,
và được đào tạo trong hệ thống giáo dục tiên tiến, có trình độ chuyên môn cao,
chúng sẽ khó chấp nhận những quan điểm mù mờ thiếu cơ sở khoa học. Trong khi đó
phần lớn của con người trong xã hội ngày nay, quan tâm đến những vấn đề có liên
quan đến con người và xã hội mà họ đang sinh tồn, không phải là những vấn đề
mang tính triết lý siêu hình.
Tôi tin rằng,
giáo lý mà đức Phật giác ngộ là giáo lý cho con người, đối tượng mà đức Phật
giáo dục là con người. Dẫu rằng hệ thống giáo lý đó đề cập giải quyết những vấn
đề cụ thể trong quá khứ, đôi khi không còn phù họp cho con người và xã hội ngày
nay, nhưng ngang qua những hình thức giào dục đó, nó vẫn ẩn chứa một nguyên lý
tinh thần giáo dục mà đức Phật muốn gởi cho các thế hệ sau không cùng xã hội và
lãnh thổ. Nguyên lý đó, tinh thần đó có giá trị tuyệt đối, áp dụng cho mọi thời
đại và con người.
[1] H.T Minh Châu
dịch, “Kinh Tương Ưng Bộ” tập 3, Viện Nghiên cứu Việt nam Ấn hành, năm 1993,
trang 219.
[2] H.T Thiện Siêu và
Thanh Từ dịch, “Kinh Tạp A hàm” tập 1, Viện nghiên cứu Phật học Việt nam ấn hành
1993, trang 635.
[3] H.T Minh Châu dịch,
“Kinh Tương Ưng Bộ” tập 3, Viện Nghiên cứu Việt nam Ấn hành, năm 1993, trang
219.
NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT!
Trả lờiXóa