Ba Độc: Tham - Sân - Si

Trong
cuộc sống có rất nhiều thứ độc hại. Có loại chất độc làm cho con người
trở nên điên đảo như thuốc độc, rượu, bia,… Có loại làm cho con người có
cảm giác lâng lâng như xuất hồn ra khỏi xác, kích thích con người năng
động hơn, rạo rực hơn và cuồng nhiệt, say mê hơn như thuốc phiện, ma
túy, hồng phiến,… Nhưng nguy hại hơn cả là ba thứ độc hại: tham - sân -
si. Vì nó là cội nguồn sinh ra mọi thứ tội lỗi, là động cơ khiến con
người tìm đến với các chất độc hại kể trên và là động lực lôi kéo con
người vào đường tội lỗi, trôi lăn mãi trong luân hồi, sanh tử.
Hình tướng của tham:
Tham
có nghĩa là ham muốn, tham lam. Tham là tâm lý chúng của con người.
Lòng tham của con người là vô cùng tận. Mọi người thường tham đắm vào
năm món dục: tiền tài, danh vọng, sắc đẹp, đồ ăn thức uống và sự ngủ
nghỉ.
Đối
với tiền của, ai cũng muốn mình có thật nhiều. Nói cho chính xác thì
không phải con người tham tiền, tham của mà là tham những giá trị mà
tiền của có thể mang lại cho họ. Vì tham tiền của mà con người phải làm
lụng vất vả, khó nhọc, quần quật quanh năm suốt tháng, không có thời
gian nghỉ ngơi. Cũng vì muốn có thật nhiều tiền của mà người ta đã bày
mưu, tính kế, lừa dối, gạt gẫm nhau để thu lợi về phần mình, không hề
quan tâm đến người khác. Vì thấy lợi trước mắt nên người ta bất chấp mọi
qui định của pháp luật, không nghĩ đến đạo nghĩa, không từ mọi thủ
đoạn, đánh mất nhân cách của mình. Trong sự tranh đoạt thì nhất định có
kẻ thắng người thua, kẻ được người mất. Kẻ được thì vui mừng, hồ hỡi,
người mất thì buồn khổ, tủi hận. Đây chính là nguyên nhân dẫn đến sự đấu
tranh. Một khi đã có nhiều tiền của thì lại lo đến chuyện cất giữ nó.
Nhiều người quá ư vất vả trong vấn đề này. Họ phải lo khóa trong, khóa
ngoài, phải thuê người bảo vệ mà vẫn chưa an tâm, đi đâu cũng nơm nớp lo
sợ, sợ bị chấn lột, bị bắt cốc tống tiền,… Đấy là nói những người làm
ăn chân chính. Còn những người làm ăn bất chính thì sự khổ sở và nỗi lo
sợ của họ chồng chất rất nhiều. Họ luôn bị nỗi lo sợ ám ảnh, đến cả lúc
ngủ cũng không yên tâm, lúc nào cũng có cảm giác như ngồi trên đống lửa,
khiến họ ngồi trên đống của mà vẫn không có được một giây hạnh phúc.
Đối
với danh vọng, địa vị, con người cũng ham muốn không cùng. Vì danh vọng
và địa vị có thể đem đến cho con người uy tín, quyền lực và tiền của
cho nên ai cũng muốn đạt được. Trong trường danh vọng, địa vị cũng không
kém phần kịch liệt. Muốn có danh vọng, địa vị thì phải cố gắng, phải
làm việc cật lực. Mà những địa vị cao trong xã hội thì đâu có nhiều, cho
nên mọi người thường tranh dành lẫn nhau. Nhiều khi để đạt được địa vị,
danh vọng, người ta phải bày mưu, tính kế, trù dập lẫn nhau, dẫm đạp
lên nhau, đôi khi dùng đến cả những phương thức bạo động để đạt được địa
vị trong xã hội. Và khi đã đạt được rồi vẫn thấy chưa yên, một mặt thì
lo củng cố địa vị hiện tại, một mặt hướng đến địa vị cao hơn. Chính sự
ham muốn quá mức này đã vắt kiệt sức lực và tâm lực của con người. Tổ
tiên chúng ta đã nhận định: “Càng cao danh vọng càng dày gian lao”. Thế
nhưng mọi người vẫn lao vào con đường tìm kiếm công danh, địa vị, chính
vì thế mà khổ đau vẫn mãi bám theo bên mình.
Đối
với sắc đẹp, mà cụ thể là đối với những khoái cảm về xúc chạm thân xác,
con người đắm say trong đó, không biết chán, không biết mệt và càng
ngày càng lún sâu thêm. Về vấn đề này, trong Kinh Tăng chi bộ, phẩm Sắc,
đức Phật có dạy rằng: “Ta không thấy một sắc… một thanh… một hương...
một vị… một xúc nào khác, này các Tỷ-kheo, xâm chiếm và ngự trị tâm
người đàn ông như sắc… thanh… hương... vị… xúc người đàn bà. Này các
Tỷ-kheo, xúc người đàn bà xâm chiếm và ngự trị tâm người đàn ông” và “Ta
không thấy một sắc… một thanh... một hương... một vị... một xúc nào
khác, này các Tỷ-kheo, xâm chiếm và ngự trị tâm người đàn bà, như sắc…
thanh.. .hương... vị... xúc người đàn ông. Này các Tỷ-kheo, xúc người
đàn ông xâm chiếm và ngự trị tâm người đàn bà”. Sự hưởng thụ khoái cảm
nhục dục quá độ khiến cho thân thể hao mòn, bệnh tật phát sinh. Trong
thực tế, nhiều người đã có người hôn phối nhưng khi gặp những người khác
phái vẫn nảy sinh sự ham muốn như thường. Đây chính là nguyên nhân dẫn
đến sự đổ vỡ của bao gia đình, đem đến cái chết oan uổng của nhiều người
và dẫn đến những tai nạn thương tâm. Hậu quả của vấn đề này còn đưa đến
cho xã hội nhiều tai hại khác, đó là an ninh xã hội bị xáo trộn, tội
phạm tăng thêm, số trẻ em mồ côi, vất vưởng, không nơi ngương tựa càng
nhiều,… Và đã có không ít những quan chức, doanh nhân đã phải đánh mất
sự nghiệp của mình cũng chỉ vì sắc dục. Sự đắm nhiễm sắc dục quá độ
khiến cho bao người cuồng loạn, khổ đau.
Đối
với những thứ thực phẩm, người ta cũng ham muốn rất nhiều. Nhiều người
chỉ vì miếng ăn, thức uống mà đã đánh mất nhân phẩm của mình. Sự ham
muốn này cũng không bao giờ biết dừng lại, được ăn thứ này lại muốn thứ
khác. Lúc nào cũng muốn những của ngon vật lạ, lúc nào cũng muốn thưởng
thức những thứ khoái khẩu. Song, những thứ đó không thể từ trên trời rơi
xuống, không phải muốn là có được, con người phải trả giá cho những ham
muốn này, nhiều khi phải trả giá rất đắt. Các loài động vật tranh dành
nhau miếng ăn đã đành, con người tự cho mình là loài động vật cao cấp
nhất, thế mà vẫn tranh dành, chiếm đoạt miếng ăn của nhau. Đôi khi vì
miếng ăn mà dẫn đến thù hận nhau, chém giết lẫn nhau. Thật là bi thảm!
Còn
đối với sự ngủ nghỉ, sự nhàn rỗi, mọi người vẫn ham muốn có được. Có
người cái gì cũng muốn nhưng lại làm biếng, không chịu lao động, chỉ ưa
ngủ nghỉ suốt ngày. Nếu chỉ biết ăn rồi ngồi không, không muốn vận động,
không tập thể dục thì sẽ có một ngày bệnh tật sẽ kéo đến. Cơ thể con
người ví như một cỗ máy, nếu không hoạt động thì cỗ máy sẽ bị rỉ rét, bị
hư hỏng; ngược lại, nếu hoạt động quá nhiều mà không bảo trì, sữa chữa
thì nó cũng hư. Vì thế cần phải cần bằng trong sinh hoạt, có làm việc,
có nghỉ ngơi thì mới được khỏe mạnh. Những người ưa nhàn rỗi, muốn hưởng
thụ vui sướng, không chịu vận động, nào ngờ chính lối sống nhàn rỗi ấy
là nguyên nhân để cho bệnh tật phát sinh, và thế là họ phải nếm mùi đau
khổ của bệnh tật.
Như
vậy, có ham muốn là có đau khổ, còn ham muốn là còn khổ đau, ham muốn
càng nhiều thì khổ đau càng lắm. Lòng tham khiến cho con người phải khổ
đau cả trong hiện tại lẫn tương lai.
Hình tướng của sân:
Sân
là nóng giận. Có thể là do mong cầu mà không được toại ý nên sinh nóng
giận, và cũng có thể là do người khác làm trái ý, phiền lòng mình nên
nổi giận. Có loại nóng giận bộc phát ra ngoài và có loại thì âm ỉ cháy
bên trong.
Loại
nóng giân bộc phát ra ngoài thì rất là tai hại. Mỗi khi cơn giận nổi
lên thì người ta không còn kiểm soát được cử chỉ, hành vi của mình.
Những lúc như thế thì không có việc gì mà họ không dám làm, họ có thể
giết người, đánh đập, chửi mắng vô cùng thô bạo. Họ vung tay, múa chân,
đi đứng vô cùng bạo ngược, nói năng bất hảo, mặt đỏ mắt trừng,… Có những
người chồng, người cha, trong cơn nóng giân đã đánh vợ, đánh con đến độ
phải chết hoặc gây ra thương tích, trở thành phế nhân, và khi tỉnh lại
thì sự đã rồi, thế là quãng đời còn lại của anh ta phải sống trong ân
hận, khổ đau, day dứt mãi không thôi.
Tuy
nhiên, do loại nóng giận này biểu lộ ra bên ngoài nên người khác dễ
dàng nhận biết được, nếu đối tượng là người khéo léo, nhã nhặm, có khả
năng làm chủ bản thân tốt thì có thể chuyển đổi được tình thế, xao dịu
được cơn giận của đối phương.
Đối với những người có khả năng kiềm chế, làm chủ bản thân, khi gặp chuyện trái ý, nghịch lòng, khi bị kích động, sự nóng giân vẫn phát sinh, nhưng họ đủ mạnh để ghìm sự nóng giận ấy vào trong lòng. Đây là kiểu nóng giận của Hoạn Thư:
Đối với những người có khả năng kiềm chế, làm chủ bản thân, khi gặp chuyện trái ý, nghịch lòng, khi bị kích động, sự nóng giân vẫn phát sinh, nhưng họ đủ mạnh để ghìm sự nóng giận ấy vào trong lòng. Đây là kiểu nóng giận của Hoạn Thư:
"Bề ngoài thơn thớt nói cười
Mà trong nham hiểm giết người không dao"
Mà trong nham hiểm giết người không dao"
Vì
lòng giận được ghìm vào, âm ỉ cháy trong lòng nên họ không có những
hành động thô bạo. Điều này giúp cho người nóng giận tránh được những
hành động nông nỗi trong cơn giận dữ và dễ dàng hóa giải lòng giận hơn
nếu họ biết tu tập. Còn nếu như hạng người này mà thiếu tu tập thì họ
trở nên vô cùng thâm hiểm, họ hành động âm thầm làm cho đối phương không
biết đâu để phòng tránh. Một khi cơn giận cứ âm ỉ cháy trong lòng thì
nó làm tổn hại bản thân rất nhiều. Nó làm cho con người trở nên trầm
cảm, u uất và dễ phát sinh các chứng bệnh tâm thần và đấy cũng là một
trong những nguyên nhân dẫn đến bệnh đau bao tử, bệnh ung thư. Vì sự u
uất lâu ngày nó làm cho bao tử tiết ra nhiều chất axít hơn bình thường
và dễ kết tụ thành những khối u ở trong cơ thể.
Nói
chung, cả hai loại nóng giận đều đem lại tai hại và đau khổ cho cả mình
và người trong hiện tại lẫn tương lai. Sự nóng giận làm tiêu tan bao
nhiêu hạnh lành, đánh mất nhân cách, uy tín của bản thân. Đức Phật có
dạy: “Một niệm sân hận khởi lên, đốt cháy cả khu rừng công đức”.
Về hình tướng của si:
Si
là không sáng suốt, không có trí tuệ, không thấy rõ pháp Tứ đế, không
thấy được tính vô thường, vô ngã của các pháp. Trong Tam độc thì si là
cội gốc sinh ra hai thứ kia. Có nghĩa là do si mê nên sinh tham trước,
do si mê mới sanh nóng giận.
Điều
si mê trước nhất của con người là chấp thân ngũ uẩn này là thật, là của
ta (chấp ngã). Chính vì thấy thân này là thật nên thấy những cái liên
hệ với thân này cũng là thật luôn (chấp ngã sở). Do cái thấy như vậy cho
nên luôn tìm cầu mọi thứ để thỏa mãn sự mong cầu của thân, lo trang sức
cho thân. Nhưng sự mong cầu của thân thể thì không có giới hạn nên sự
thỏa mãn ấy cũng không có điểm dừng lại. Chính vì thế mà nó lôi cuốn con
người vào vòng xoáy của nó, làm cho tâm trí con người càng thêm mờ mịt,
thân thể ngày càng bạc nhược. Ham muốn không được thì sinh nóng giận,
khi đã đạt được thì phải lo bảo vệ. Nhưng hễ có kẻ được thì tất có người
mất, từ đó sanh ra hai trạng thái tâm lý khác nhau, đối kháng nhau giữa
người với người và dẫn đến làm khổ nhau mãi.
Tiếp
theo là sự mê chấp tâm lý, ý thức vốn sanh diệt, biến đổi luôn luôn,
thế nhưng chúng ta lại mê chấp là thường hằng, bất biến. Thực ra, những
thứ ấy do sáu căn tiếp xúc với sáu cảnh cùng với sự tham gia của sáu
thức mà sinh ra. Chúng thay đổi, chuyển động luôn luôn. Thế mà chúng ta
vẫn bám vào cái giả hợp ấy cho là tâm mình. Khi đã chấp vào sự giả hợp
ấy là tâm mình rồi thì mình nghĩ gì, suy tư điều gì cũng đều cho là
đúng, là hay, là hợp lý, rồi bảo vệ ý kiến, quan điểm của mình, phản bác
ý kiến, quan điểm của người khác. Đây là một trong những nguyên nhân
làm phát sinh sự đấu tranh, chống đối lẫn nhau.
Mỗi
người đều có duyên nghiệp riêng biệt, có hoàn cảnh sống khác nhau, tiếp
thụ những nền văn hóa, giáo dục khác nhau nên thật khó có sự giống nhau
trong suy tưởng. Vì thế, mọi người cần phải biết dung hòa lẫn nhau, bổ
sung cho nhau và tôn trọng lẫn nhau. Có như thế mới tạo nên cuộc sống ý
vị. Giả như mọi người đều đồng nhất quan điểm với nhau, đơn điệu như
nhau thì còn đâu là cuộc sống, còn đâu nữa sự phong phú, đa dạng của
cuộc đời?!
Đối trị ba độc:
Như
trên chúng ta đã biết, si mê là cội rễ của ba thứ độc hại. Vì thế, muốn
loại trừ chúng thì phải nhổ tận gốc rễ, như người làm vườn, muốn làm
sạch cỏ thì phải nhổ cỏ cho tận gốc. Một khi không còn si mê thì tham và
sân tự nhiên mất đi, chúng không còn não hại chúng ta nữa. Như chư Tổ
đã dạy:
“Không sợ tham sân khởi, chỉ sợ không tỉnh giác kịp thời”.
Để
cho trí tuệ phát sinh thì phải tu tập theo giáo pháp của đức Phật. Để
dứt trừ cội rễ si mê thì tu tập Vô thường quán và Duyên sinh quán. Chúng
ta phải luôn luôn quán chiếu vạn pháp là vô thường, tất cả đều vận hành
theo qui luật thành-trụ-hoại-không. Hễ có sanh thì có diệt, có tụ hội
thì có ly tan. Tất cả đều nương nhau mà tồn tại theo tính duyên sinh,
nương vào nhau mà sinh khởi, cái này có mặt vì cái kia có mặt, cái này
sinh vì cái kia sinh, cái này diệt vì cái kia diệt. Mọi sự mọi vật đều
không có thực thể, không có tính vĩnh hằng. Chúng chỉ có mặt khi hội đủ
nhân duyên và khi các duyên chia lìa nhau thì chúng cũng theo đó mà tan
hoại. Bởi vì do duyên mà sinh khởi nên các pháp chỉ là giả hợp. Và thân
người chúng ta cũng không ngoài đặc tính ấy. Thân người này có được là
do sự kết hợp đúng thời của tinh cha, huyết mẹ và thần thức (thân trung
ấm), do năm uẩn cấu thành, vận hành theo chu kỳ sanh-già-bệnh-chết.
Một
khi đã biết thân này là giả hợp, là tạm bợ thì chúng ta sẽ thấy những
thứ xung quanh ta cũng là giả hợp, tạm bợ mà thôi. Nhờ sự thấy biết này
mà chúng ta không tham đắm, không chấp trước. Do vậy mà khổ đau được vơi
đi dần. Ngay thân ta còn tạm bợ, huống gì những thứ danh vọng hảo
huyền, những sắc đẹp hào nhoáng, những thực phẩm tạm bợ, những lời nói
gió bay, những con chữ mỏng manh ấy. Cho nên chúng ta sẽ không tham cầu,
không nổi nóng vì những lời bất hảo, những sự trái ý, nghịch lòng nữa.
Tuy
nhiên, mặc dù thấy thân người là giả hợp, tạm bợ, nhưng không vì thế mà
sống vội, sống cuồng, ăn chơi trác táng để rồi khổ mình hại người. Và
cũng không vì thế mà sống lây lất, hay là khổ hạnh ép xác, như thế thì
chẳng được lợi ích gì cả, chỉ chuốc thêm khổ đau mà thôi. Chúng ta vẫn
dùng thân này làm phương tiện để tu tập, hành hóa. Cho nên cũng cần phải
đảm bảo đủ điều kiện để cho thân thể được khỏe mạnh, có đủ sức khỏe để
tu tập và sống có ý nghĩa.
Ngoài
ra, chúng ta cũng nên bố thí, cúng dường, tu tạo phước đức, sống thiểu
dục tri túc để trợ duyên trong việc chuyển hóa lòng ham muốn. Và tu tập
lòng từ bi, thương yêu mọi người, mọi loài, rèn đức nhẫn nhục để góp
phần chuyển hóa tâm sân hận.
Tam
độc là nguyên nhân làm cho chúng sanh đau khổ, bất an và không có hạnh
phúc; là động lực thúc đẩy chúng sanh tạo các ác nghiệp và cứ thế mà
trôi lăn mãi trong luôn hồi lục đạo, lặn hụp trong biển khổ sanh tử
không biết ngày nào ra khỏi; là nguy cơ dẫn đến chiến tranh, tàn hại lẫn
nhau, phá hủy môi trường tự nhiên và làm ô uế môi trường xã hội.
Là
những người học Phật, hành theo hạnh của Phật, chúng ta phải tu tập để
chuyển hóa dần dần tham, sân, si ở trong lòng. Có như thế chúng ta mới
có thể kiến tạo cho mình một đời sống hạnh phúc, an vui và góp phần đem
hạnh phúc, an vui đến cho mọi người, làm cho cuộc sống cá nhân, gia đình
và xã hội ngày thêm tươi đẹp, ngày càng hạnh phúc và an lành hơn.
- Minh Nguyên -
Tạ lỗi...